Cự môn và Tứ Hóa

Cự Môn – Hóa Kị
Cự Môn chủ khẩu thiệt gặp Hóa Kị càng tăng thêm cái phiền cái họa về khẩu thiệt còn đưa đến kiện tụng cò bót. Cự Môn Hóa Kị mệnh cung thành cặp hung thần làm cho bị thương, bị giải phẫu.

Cự Kị đóng mệnh thêm sát tinh ngay từ lúc nhỏ đã thấy, đã gặp những điều đắng cay như mồ côi, bố mẹ phân ly… Cự Kị Hồng Đào, vợ chồng chia lìa. Cự Kị đóng Tài bạch làm ông giáo, làm người bán hàng mà có thêm Hóa Lộc thì nhờ nói mà ra tiền.

Mệnh cung Cự Kỵ không thêm sát tinh, có Quyền Lộc không nên xuất đầu lộ diện đừng thích hư danh sẽ yên ổn mà ngấm ngầm tiến tới thành công. Cự Môn tuy là cái miệng nhưng hễ thấy Hóa Kị thì đừng nên làm kịch sỹ hay ca sỹ để hứng chịu la ó của khán thính giả.

Cự Kị đắc địa được Hình Quyền làm thầy kiện đắc lực, hoặc điều khiển cơ quan mật vụ cũng hay. Tất cả chỉ vì Cự Môn là ám diệu mà Hóa Kị lại chủ ẩn mật tiềm tàng.

Cự Kị đóng Phụ mẫu gặp Hình hay Đà không thể gần gũi hòa hợp với cha mẹ. Cung Phu thê rất ngại thấy Cự Môn Hóa Kị thế nào cũng tan vỡ. Có cả Đào Hoa nữa thì thành tình tay ba.

Cung Bào huynh Cự Kị khó lòng hợp tác với ai mà yên lành. Cự Kị vào cung Tật ách bị bệnh thần kinh hay xương tủy. Cự Môn cũng là ống thực quản từ miệng trôi vào dạ dày cũng đưa đến bệnh về yết hầu.

Cự Môn thuộc nhóm Bắc Đẩu tinh, hành Thủy, miếu địa ở Mão, Dậu, vượng địa ở Tí, Ngọ và Dần. Cự Môn là cái miệng, con người sống cũng nhờ cái miệng, chết cũng vì cái miệng, được người thương cũng do cái miệng, bị người ghét cũng bởi cái miệng của mình mà thôi… nếu Cự Môn tọa thủ tại những vị trí miếu, vượng thì Cự Môn còn là biểu tượng của sự giàu sang, thông minh, cơ trí, có khiếu ăn nói, có tài hùng biện, thích hợp với các ngành ngoại giao, giao thiệp, dạy học, luật sư… Chẳng hạn nếu thấy lá số của con cái mình có cách Cự Hổ Tuế Phù, là gồm các sao Cự Môn, Bạch Hổ, Tuế Phá và Thiên Phù hội họp với nhau thì nên khuyến khích cho con cái đi vào ngành luật, vì tương lai chắc chắn sẽ trở thành những luật sư tài giỏi. Nhưng ngược lại, nếu Cự Môn rơi vào những nơi hãm địa thì đã không tài giỏi lại thiếu suy nghĩ, cứ mở miệng ra là bị người ta ghét và suốt đời chỉ gặp toàn là những chuyện thị phi khẩu thiệt .
Ý nghĩa thứ hai, Cự Môn là viên ngọc. Chẳng hạn, Cự Môn ở Tí Ngọ là cách Thạch Trung Ẩn Ngọc, có nghĩa là ngọc còn ẩn trong đá, Cự Môn gặp Nhật là cách Cự Nhật, là ngọc lấp lánh dưới ánh mặt trời, và Cự Môn gặp Hóa Kỵ là cách Cự Kỵ mà chúng ta đang bàn đến, còn gọi là Tì Hà Ngọc, có nghĩa là ngọc bị tì vết.

Sao thứ hai của cách này là Hóa Kỵ, một ám tinh với nhiều tính xấu như độc hiểm, ích kỷ, ghen tuông, tai tiếng, thị phi, kiện cáo, tai họa, bệnh tật, nông nổi và hay lầm lẫn… Với bản chất như vậy, cho nên Hóa Kỵ đã làm cho viên ngọc Cự Môn thành tì vết, nhưng Hóa Kỵ cũng có một điểm tốt là giữ được của.

Cách Cự Kỵ đối với nam mệnh, ngoài những nét tổng quát là cuộc đời nhiều thất bại, lại thường hay bị nhiều điều thị phi khẩu thiệt, tai nạn về xe cộ hay sông biển, mà cách này chỉ đáng lưu ý hơn đối với nữ mệnh. Khi gọi cách Tì Hà Ngọc thì chữ ngọc hàm ý chỉ vào phái nữ, hay nói rõ hơn là vấn đề trinh tiết, phẩm hạnh của một người đàn bà, cho nên mẫu người Cự Kỵ mà chúng ta nói đến là bàn nhiều đến nữ có cách Cự Kỵ.

Với nữ mệnh có Cự Môn tọa thủ và có Hóa Kỵ đồng cung, xung chiếu hay hợp chiếu thì ít nhiều cũng có điểm bất lợi. Ở đây Cự Kỵ, Tham Kỵ, Đào Kỵ hay Thai Phục Vượng Tướng mà chúng ta sẽ đề cập tiếp theo, thì sự cân nhắc nặng nhẹ phải hết sức thận trọng, vì vấn đề sẽ liên quan đến danh tiết và phẩm hạnh của một người đàn bà. Do đó, chúng ta nên phân biệt:

1) Nữ có Cự Môn miếu vượng tọa thủ và gặp Hóa Kỵ, chúng ta phải xem ở cung Mệnh và Thân, Phúc, Phu, Quan, Nô… để xem nếu có những sao xác định nết đoan chính như Nhật, Tứ Đức… hoặc những sao khắc chế tính lẳng lơ như Hóa Khoa, Thiên Hình… thì Cự Kỵ ở đây nhẹ là những người thường hay gặp các hoàn cảnh khiến cho mình bị những tai tiếng thị phi hoặc dễ bị người khác hiểu lầm, đánh giá sai lầm phẩm hạnh của mình mà có những lời nói, cử chỉ xúc phạm, sách nhiễu tình dục (sexual harassement). Mức độ nặng hơn, nếu gặp những sao như Thiên Hình, Kiếp Sát… thì có thể vì bệnh tật mà phải mổ xẻ, như cắt bỏ buồng trứng, tử cung v.v… Hoặc có thể là những tai nạn về xe cộ và đáng kể nhất là những tai họa về sông biển như một số người đã gặp trên đường vượt biển trong những năm về trước. Như vậy, trong trường hợp này, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc vốn là một viên ngọc sáng, nhưng vì hoàn cảnh mà rơi xuống bùn nên vấy bùn, hoặc bị lăn xuống đường nên có tì vết, đó là ngoài ý muốn, là tai nạn của đương số mà thôi.

2) Cự Môn tuy là miếu, vượng mà gặp Hóa Kỵ, lại còn được sự hỗ trợ của các sao có tính lãng mạn, như Xương, Khúc, Hồng Loan hoặc lẳng lơ, ham chuộng vật chất, nặng phần tình dục như Tham, Đào Hoa, Thiên Riêu v.v… thì những gì không tốt xảy ra cho đương số là do bản tính chứ không phải là những rủi ro, tai nạn, và hoàn cảnh chỉ là những trợ lực thúc đẩy thêm mà thôi. Chẳng hạn, nữ mệnh có cách Cự Kỵ lại gặp thêm Đào Hồng thì làm sao mà giữ được trinh tiết cho đến ngày lên xe hoa, và khi đã có gia đình thì một đời cũng đau khổ vì tình hoặc phải lo buồn vì chồng con, dù cho họ có một cuộc sống vật chất đầy đủ, dù cho họ cũng có địa vị trong xã hội, là những mệnh phụ phu nhân… Trường hợp này có thể ví như Thúy Kiều, ở cái thời xa xưa đó, với xã hội phong kiến đó, mà nửa đêm thân gái một mình vào nhà Kim Trọng đánh đàn, thì làm sao trách được sự đánh giá nghiêm khắc của người sau: Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm. Và như vậy, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc trong trường hợp này là một viên ngọc vốn đã có vết, có bọt ngay từ trong lòng đất, chứ không phải do tay người dũa ngọc hay người chủ của viên ngọc.

3) Trường hợp nữ mệnh có Cự Môn hãm địa tọa thủ mà không được Tuần, Triệt án ngữ hay được các sao “đoan chính” hóa giải phần nào thì đây là một mẫu người, có một bề ngoài mà ai mới gặp cũng thấy yêu thích, nhưng khi tiếp cận lâu dài thì mới thấy rõ con người thật được che đậy vốn là một người đàn bà chua ngoa, ghen tương, đố kỵ đủ điều… Và nếu đi kèm với một ám tinh Hóa Kỵ nữa thì ba chữ Tì Hà Ngọc thật là đúng nghĩa!

4) Cách Cự Kỵ dù tọa thủ tại cung Mệnh hay các cung Phúc, Quan, Tài hay Phu cũng còn nói lên sự bất ổn trong cuộc sống tình cảm của đương số. Lá số có cách Cự Kỵ một đời khó lòng chỉ có một mối tình hay chỉ một cuộc hôn nhân, chuyện gãy đổ, chắp nối hay sống với nhau theo kiểu già nhân ngãi, non vợ chồng là chuyện bình thường của mẫu người này, nếu không được những sao hóa giải. Các trở ngại hay đổ vỡ trong tình cảm thường là do sự khắc khẩu, ảnh hưởng của Cự Môn, và tính ghen tuông cũng như lòng ích kỷ quá nặng, ảnh hưởng của Hóa Kỵ.

Tóm lại, cách Cự Kỵ không tốt cho cả nam và nữ nhưng nữ mệnh thì nặng nề và tai hại hơn trong lãnh vực trinh tiết và phẩm hạnh, cuộc đời chắc chắn là một kiếp phong trần, chỉ khác nhau ở mức độ nặng nhẹ mà thôi. Nhưng ở đây, chúng ta đừng quên một trường hợp đặc biệt, cách Cự Kỵ lại rất tốt cho những người tuổi Quý và tuổi Thân, khoa Tử Vi Đẩu Số gọi là phản vi kỳ cách, có nghĩa là từ xấu trở thành tốt vì có sự ứng hợp.

CỰ MÔN - can Đinh hóa Kị

Cự Môn không ưa hóa thành Kị, vì vốn đã có tính chất "điều tiếng thị phi", sau khi Hóa Kị càng làm mạnh thêm tính chất xấu này, khiến cho đời người thêm nhiều phiền phức rắc rối.

Cự Môn sau khi Hóa Kị cũng ảnh hưởng đến phương diện tình cảm, thường dễ xảy ra phiền phức liên tiếp mà không thể đoán trước được. Cho nên người Cự môn hóa Kị tọa mệnh, bất kể các sao của cung Phu Thê hoàn mỹ đến đâu, ít nhất cũng có một lần gãy đổ trong tình yêu hoặc hôn nhân, tất nhiên sau đó để lại vết thương lòng suốt đời khó quên.

Thích cầu toàn cầu mỹ, nhưng bất kể đã nỗ lực như thế nào, sự nghiệp phát triển cũng không được như lý tưởng. Nhưng mệnh tạo lại chấp trước sự hoàn mỹ vì vậy mà sinh ra thất vọng, hơn nữa trong quá trình sự kiện phát triển mệnh tạo rất đau đớn khổ sở và vất vả. Lúc có Đà La đồng độ, khuynh hướng này càng rõ rệt.

Cự Môn hóa Kị độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thiên cơ hóa Khoa, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung tam hội có Thái Dương độc tọa và mượn "Thiên Đồng Thiên Lương" mà Thiên Đồng hóa Quyền. Cự môn hóa Kị trong tinh hệ này, thường nhờ "hung sự" mà biến thành lực kích phát. Sự số trắc trở đang trong quá trình phát triển thì ngưng lại, những mỗi lần trắc trở như vậy, thực ra lại khiến cho kết cục càng hoàn mỹ. "Thấy Hung thực ra là Cát" là đặc điểm của nó.

Mệnh cục này bất lợi về hôn nhân, tuy giao du với nhiều người khác giới, nhưng tình cảm vẫn duy trì lâu dài một cách lặng lẽ, hoặc lúc tình cảm phát triển tới mức độ sâu đậm thì bỗng nhiên xảy ra biến cố, dẫn đến chia ly. Ở cung Ngọ dễ chuốc điều tiếng thị phi hơn ở cung Tý, nhưng lại trở thành sức mạnh kích phát.

"Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, khi Cự môn hóa Kị ắt Thiên đồng hóa Quyền (xin tham khảo phần Thiên Đồng hóa Quyền) khi Thiên đồng hóa Quyền còn làm mạnh thêm sự xung động trong bản thân.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần gặp Lộc tồn), Cự môn hóa Kị, cung tam hội mượn "Thiên cơ Thiên lương" mà Thiên cơ hóa Khoa, và mượn "Thái âm Thiên đồng" một sao hóa Lộc một sao hóa Quyền. Tinh hệ này là cách cục tứ hóa hội hợp, nhưng do Cự Môn của bản cung hóa Kị, nên rất bất lợi về quan hệ nhân tế. Thông thường bất lợi đối với người thân phái nam, nên không thích hợp với nữ mệnh, đến tuổi trung niên không có duyên với chồng, đến tuổi vãn niên thì có khoảng cách đối với con cái. Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, đều chủ về thiếu duyên với cha, hoặc dễ xung đột với thượng cấp. Do tính chất "điều tiếng thị phi", nên rất thích hợp với nghề nghiệp "dùng lời nói để kiếm tiền" như luật sư, dạy học, .v.v... nhờ "Lộc Quyền Khoa hội" có thể thăng tiến danh dự và tài lộc.

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, khi Cự môn hóa Kị, ắt Thiên cơ hóa Khoa (xin tham khảo phần Thiên Cơ hóa Khoa)

Cự Môn độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thiên Đồng ở đối cung hóa Quyền, cung tam hội Thái dương độc tọa và mượn "Thiên cơ Thái âm" mà Thái âm hóa Lộc, Thiên cơ hóa Khoa. Cự môn hóa Kị ở Thiên la Địa võng lại chủ về cát lợi, tính chất "thấy Hung mà thực ra là Cát" rất rõ ràng. Cho nên bề ngoài tuy gặp trắc trở, điều tiếng thị phi, nhưng kết cục thường thường lại khiến cho người ta bất ngờ, có điều vẫn khó tránh phải trải qua gian khổ, tâm lư lo nghĩ. Nếu gặp Hỏa Linh, hoặc Không Kiếp đồng độ, thì rất thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền". Có điều mệnh tạo ưa giải quyết khó khăn cho người khác, nên sự nghiệp tuy tốt nhưng cuộc đời lại khó được yên tịnh. hôn nhân cũng chủ về mỹ mãn, bất kể nam mênh hay nữ mệnh, đều nên lấy người có sự nghiệp.

Cự môn độc tọa, hóa Kị ở hai Cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, ắt sẽ gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Đà la, cung tam hội là Thiên đồng độc tọa hóa Quyền và Thiên Cơ đọc tọa hóa Khoa. Thông thường, tinh hệ này ảnh hưởng đến lục thân ở mức độ nhẹ, Cự môn ở cung Hợi càng nhẹ hơn, nhưng tình hình về "điều tiếng thị phi", và sóng gió trắc trở trong tình cảm thì khá nặng. Nam mệnh ắt sẽ lấy được vợ đẹp, nữ mệnh ắt sẽ lấy được chồng có đường sự nghiệp tốt, bàng nhân thiên hạ đều cho rằng họ đẹp đôi, nhưng phần nhiều họ lại bất mãn với người phối ngẫu, sau trung niên thường thay lòng đổi dạ, khiến cho mọi người xung quanh đều ngạc nhiên.

Hóa lộc – Cự Môn

Cự Môn là ám diệu, nếu hung thành lao lực, cát thành lao tâm. Có Hóa Lộc đứng bên, tính chất ám diệu không thay đổi.

Bởi thế Cự Môn - Hóa lộc phải cần Tả Hữu Khôi Việt để mà giảm bớt gian lao. Xương khúc chỉ làm tăng tài trí chứ không làm giảm bớt gian lao.

Cách Ngọc ẩn trong đá càng rất cần Hóa lộc để làm giàu. Cự môn Hóa lộc khi thành công phải khiêm tốn thì mới bớt tai họa do người đời ganh ghét mà đánh phá.

Cự Lộc hội được với Thái dương Hóa quyền ví như gấm thêm hoa, làm ăn với người nước ngoài thành công. Đời nay giao thương quốc tế phồn thịnh nên số Cự Lộc Dương Hóa quyền rất hợp thời.

Cự Lộc mang một nhược điểm: hay bị suy hao do thiếu lỳ lợm gan góc trong chuyện làm ăn. Tỉ dụ: mua cổ phiếu chưa cao giá lắm đã bán, bán xong giá lên mạnh lại hốc hận mua vào lúc giá cao, mua rồi giá lại xuống dốc.

Cự Lộc có một sở trường: “Khẩu thiệt sinh tài” ăn nói ra tiền giỏi thương thuyết. Nhưng nếu Cự Lộc mà gặp Văn Xương Hóa Kị lại thành phản cách, tính tình bất lương và dễ bị phá bại, không thể kinh doanh và cẩu thả trong giao tế.

Cự Lộc nhất là Cự Nhật Lộc ở miếu vượng vào các cung Phụ, Bào, Tử tức rất hợp, đưa đến sự thân ái với lục thân, đồng thời được trợ lực của họ, có thêm 3 sao Đức hay Tả Hữu càng hay; trường hợp bị Sát Kị, cái tốt của Cự Lộc giảm hẳn.

Cự Lộc vào cung tật ách thường gây khó cho cơ quan hô hấp, phổi hay khí quản, bị bệnh thận hay bệnh dạ dày thì không nặng.

CỰ MÔN HÓA QUYỀN


Trong Đẩu Số, Cự Môn là “ám” diệu. Nó cần được Thái Dương miếu địa chiếu mới thật hay. Thiếu Thái Dương miếu thì dù Hóa Lộc hay Hóa Quyền kể là khuyết điểm. Cự Môn Hóa Lộc nặng tham vọng lợi lộc, vừa ham của lại vừa ganh của. Cự Môn Hóa Quyền nặng tham vọng chức vị quyền binh, vừa ham quyền lại vừa ganh quyền. Đứng với Hóa Lộc đôi lúc còn mềm dẻo biết lùi. Nhưng đứng với Hóa Quyền không biết thoái nhất bộ cứ hăm hở tiến tới một cách kém thực tế, tất phải gặp phản ứng và đố kị đưa đến tai họa phiền nhiễu.

Cự Môn Hóa Quyền kèm bên những sát tinh đừng bao giờ xuất đầu lộ diện sẽ nguy hiểm vào thân danh. Cự Môn Hóa Quyền kèm bên những sát tinh nên giữ thái độ “bất tranh” rồi thì quyền chức tự đến.

Cự Quyền đóng cung Phúc Đức cũng đi đến tình trạng như trên. Các sách vở Trung Quốc đưa ra luận đoán sau đây:

Cự Môn Hóa Quyền đóng cung Tài Bạch thì cung Tử Tức (con cái) có Thiên Tướng thủ. Thiên Tướng phía trước là Thiên Lương, phía sau là Cự Môn. Nếu cung con ấy hội tụ nhiều sát tinh ắt sẽ bị “phá gia chi tử” con cái phá của. Sát tinh là: Linh Hỏa, Xương Kị, Kiếp Không.

Cự Môn có tài ăn nói, Hóa Quyền làm tăng cái tài ấy hơn Hóa Lộc. Cự Môn Hóa Quyền học luật pháp hợp cách nhưng đừng cậy vào tài ăn nói để mà lấn át sẽ chỉ gây oán ghét bất lợi.

Cự Môn vào cung lục thân thường xảy ra tranh cãi bất hòa, nhưng hễ có thêm Hóa Quyền thì những bất hòa tranh cãi kia không còn nữa mà lục thân khả dĩ là những thế lực trông cậy được.

Tỉ dụ như cung Phu Thê có Cự Môn khó thuận hòa, nhưng được Hóa Quyền thì vợ lại là con người đắc lực chẳng những với chồng còn với con nữa.

Cự Môn đứng với sát kị tinh ở Tật Ách, bệnh hay sinh từ thực đạo, dạ dày, ruột hoặc phổi, gặp Hóa Quyền giảm hẳn.


------------------------------

------------------------------
Đã đọc : 5758 lần

Liên hệ tư vấn

hỗ trợ trực tuyến

CHÚ Ý: AVS KHÔNG TƯ VẤN QUA CHAT

tư vấn qua điện thoại (3.000 đồng/phút): 1900 68 50 hoặc (04)1088 - 1 - 7

tư vấn trực tiếp: 2/15, phố Đào Duy Từ, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội

Lĩnh vực tư vấn:

- tư vấn tâm lý tình cảm, hôn nhân, gia đình

- tư vấn nuôi dạy trẻ

- tư vấn sức khỏe tình dục: xuất tinh sớm, lãnh cảm, nghệ thuật phòng the, bệnh tình dục....

- tư vấn sức khỏe sinh sản, giới tính

- tư vấn trị liệu tâm lý

- Các vấn đề tâm lý khác như ly hôn, stress

Gọi -1900 68 50 để đặt lich tư vấn trực tiếp

Biểu giá tư vấn tại đây

Khách hàng tư vấn trực tuyến xem hướng dẫn tư vấn tại đây