Phương Vị: Bắc Đẩu Tinh
Tính: Âm
Hành: Thủy
Loại: Ám Tinh
Đặc Tính: Ngôn ngữ, thị phi
Tên gọi tắt thường gặp: Cự
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 4 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Vị Trí Ở Các Cung
Miếu địa ở các cung: Mão, Dậu.
Vượng địa ở các cung: Tý, Ngọ, Dần.
Đắc địa ở các cung: Thân, Hợi.
Hãm địa ở các cung: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ.
Tướng Mạo
Cung Mệnh có sao Cự Môn dù đắc địa hay hãm địa thì thân hình đẫy đà, thấp, da trắng, mặt vuông vắn, đầy đặn, mắt lộ.
Tính Tình
Sao Cự Môn ở cung miếu địa, vượng địa hay đắc địa thì thông minh, nhân hậu, vui vẻ, mưu trí, có khả năng phán xét tinh vi.
Sao Cự Môn ở cung hãm địa thì kém thông minh, hay nhầm lẫn, không có tánh dứt khoát, ba phải, người hay nói khoác, ích kỷ, đa nghi, tính khí hay thay đổi, tham lam, có tài nhưng kém đức, hay lợi dụng. Người nữ thì hay đố kỵ, ghen tuông, đa nghi.
Công Danh Tài Lộc
Sao Cự Môn ở cung đắc địa chỉ giàu sang, có uy danh. Người nữ thì tài giỏi, đảm đang, lợi chồng.
Sao Cự Môn ở cung hãm địa thì vất vả, khổ sở, nhất là khi Cự Môn tọa thủ ở Thìn, Tuất. Tuy nhiên, có ngoại lệ đối với hai tuổi Ất, Bính gặp Cự Môn hãm địa ở Sửu, Mùi. Trong bốn trường hợp này thì hiển đạt, khá giả.
Sao Cự Môn ở Tý được gọi là cách Thạch Trung Ẩn Ngọc, chủ học lực rộng rãi, tài cao có chí. Cách này cần phải có thêm Hóa Lộc đồng cung hoặc TUẦN, TRIỆT án ngữ, hoặc có Đại Hao, Tiểu Hao mới trở thành phú quý mạnh mẽ.
Phúc Thọ Tai Họa
Đắc địa: Cự Môn có ý nghĩa phúc thọ.
Hãm địa: Cự Môn có ý nghĩa xấu rất nặng nề, hay bị khẩu thiệt, miệng tiếng, kiện cáo, tù tội, tai nạn, bệnh nan y. Yểu tử, nếu không bỏ quê nhà tha phương cầu thực. Người nữ thì khắc chồng hại con. Nhưng ngoại lệ đối với bốn tuổi Quý, Tân và Ất, Bính, trong trường hợp này, tai họa sẽ bị chiết giảm đi nhiều.
Tuy nhiên, Cự Môn rất kỵ sao Hóa Kỵ, dù là Cự Môn đắc địa. Nếu hai sao đồng cung sẽ gặp nạn chết đuối, đụng xe hay tai nạn trinh tiết nếu gặp thêm Kình Đà. Ngoài ra, Cự Môn hãm địa còn kỵ thêm các sát tinh như Kinh, Đà, Không, Kiếp, Linh, Hỏa và hình tinh như Thiên Hình tai họa bệnh tật rất nặng và thường phải yểu tử và chết thảm.
Những Bộ Sao Tốt
Cự Môn, Thái Dương đồng cung ở Dần: Vinh hiển và danh giá suốt ba đời (ông, cha, mình). Nếu ở Thân thì không bằng ở Dần, chỉ khá giả mà thôi, trước có công danh, sau mới có tiền bạc.
Nếu thêm Quyền, Phượng: Sự tốt đẹp tăng thêm, tuy nhiên, nếu gặp Lộc Tồn thì lại xấu suốt đời bất đắc chí, đời lông bông, hao tán của cải, chơi bời lang thang.
Mệnh được Cự Nhật đồng cung chiếu: Cũng được tốt đẹp như Cự, Nhật tọa thủ.
Cự Cơ ở Mão và Dậu: Có quan chức lớn, tài lộc dồi dào (đại phú). Ở Dậu thì kém hơn ở Mão. Đặc biệt bốn tuổi Ất, Kỷ, Bính, Tân thì càng thịnh đạt và cả hai mặt phú và quí.
Nếu có thêm Đại, Tiểu Hao: Rất giàu có và uy quyền, danh tiếng lừng lẫy, nhưng tính tình phóng đãng, ăn tiêu hoang phí.
Cự Khoa ở Thìn Tuất: Có biệt tài về ăn nói, có khả năng du thuyết.
Tuổi Tân, Mệnh ở Tứ Mộ, Cự tọa thủ: Vẫn khá giả dù Cự hãm địa. Nếu thêm Tả, Hữu, tai họa bị chiết giảm đi nhiều, dù cho có Hóa Kỵ đồng cung.
Những Bộ Sao Xấu
Cự hãm, Kình, Đà: Người yếu đuối, bị bệnh nan y. Nếu không bệnh thì trộm cắp, đàng điếm, phá hoại; nữ thì lăng loàn.
Cự Hỏa Linh: Rất xấu, có thể bị chết thảm nếu hạn xấu.
Nếu thêm Kình hay Đà: Có thể tự tử bằng cách tự trầm hay thắt cổ. Nếu không chân tay bị tàn tật, phỏng nặng, làm bếp, nội trợ giỏi.
Cự ở Tý Ngọ gặp Lộc Tồn đồng cung: Có học, có tài nhưng bất đắc chí vì không gặp thời.
Cự ở Hợi Tý gặp Lộc Tồn đồng cung: Không phát huy được tài năng, dù được Lộc Quyền hội họp. Đây là trường hợp một người có cao vọng nhưng bất toại chí.
Nữ mệnh có Cự Kỵ: Con gái thì thất trinh, đàn bà thì thất tiết.
Cự Tham Hao, Cự Tham Riêu: Hạn ở nhà, ngồi tại chỗ thất nghiệp, bị tù tội, bị thưa, bị phạt tiền do sai phạm trong công việc, hạn gặp chuyện phiền nhiễu.
Cự Môn Khi Vào Các Hạn
Cự Môn, Hóa Kỵ: Tai nạn dưới nước hay xe cộ.
Cự Môn: Bị tai tiếng, kiện tụng.
Nếu sáng sủa: Cự là Quyền tinh, tất dễ thăng tiến, được tín nhiệm, có kiện tụng cũng thắng. Riêng tại Hợi gặp Lộc, thì có nhiều tiền của nhưng có thể bị hao hụt nếu mưu đại sự.
Nếu xấu xa: Bị thị phi, tai tiếng, hao tài, đau yếu, có tang ; có thể bị bãi chức và bị tai nạn xe cộ. Nếu Đại Hạn cũng xấu thì chết.
Cự Môn, Tang Môn, Hỏa Linh: Đau ốm, tán tài, có tang, có thể bị cháy nhà.
Cự Môn, Tham Lang, Hao: Thất nghiệp, nội trợ.
Sao Cự Môn trong thuyết ngũ hành vừa thuộc âm thổ, vừa thuộc âm kim, đây là thổ yên tĩnh chôn kim, cho nên hóa khí làm ám tính (sao u ám). Ở trên trời thuộc chòm sao Bắc Đẩu, ở trong mệnh bàn chủ về lời qua tiếng lại, thị phi, tranh chấp ra mặt hay ngấm ngầm đấu nhau. Nếu Hóa Quyền thì làm thầy người ta, thành danh vang xa. Có Thái Dương hội chiếu thì quang minh lỗi lạc, vừa phú vừa quý.
Cự Môn ở cung Tí hoặc cung Ngọ, gọi là cách "Thạch Trung Ẩn Ngọc" (Ngọc ẩn trong đá), lấy Cự Môn hóa Quyền hoặc hóa Lộc làm thượng cách, lấy Lộc Tồn đồng cung làm thứ cách, chủ về phú quý song toàn, một đời chức vị cao, lộc hậu, nhưng không nên tới đỉnh tối cao, nếu lên tới đỉnh điểm sẽ có hậu quả không tốt, hoặc bị mọi người chỉ trích, dẫn đến thân bại danh liệt.
Cự Môn ở hai cung Dần hoặc Thân, đều chủ về danh lợi song thu, có thể làm thành Đại Phú, thanh danh lừng lẫy ở tha hương. Có điều lấy cung Dần làm thượng cách, kế đến là cung Thân. Ở cung Dần lấy thân thể phát mập là hợp cách.
Cự Môn ở cung Tỵ không lợi cho phụ mẫu (cha), hoặc tuổi còn nhỏ đã làm con thừa tự của người khác, nếu không sẽ tổn hại cha, hay còn nhỏ nhiều bệnh tật, chủ về vất vả tất bật, nên học một nghề chuyên môn. Nếu được Lộc Tồn đồng độ thì phúc dầy lộc trọng, song tính tình mộc mạc giản dị mà cẩn thận, chủ về giàu có. Nếu hóa Quyền, hóa Lộc thì khí phách cực lớn, giỏi sáng lập sự nghiệp, chủ về sang quý. Cự Môn ở cung Hợi có Hóa Quyền, Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn đồng độ chủ về đã phú lại quý, lừng danh ở tha hương, song tài năng quá lộ, chí cao mà khí ngạo, nên dễ bi người chỉ trích.
Cự Môn ở cung Thìn, nếu hóa Quyền hoặc hóa Lộc thì chủ về phú cách, gặp thêm Lộc Tồn thì chủ về đại phú. Nếu Cự Môn và văn xương cùng đến cung Thìn, mà Cự Môn hóa Lộc, Văn Xương hóa Kỵ là cách rất đặc biệt, chủ về đại phú đại quý. Bởi sao Thiên Đồng ở cung Tuất có thể hóa giải cái xấu của Hóa Kỵ thành hữu dụng.
Cự Môn - Thiên Cơ ở cung Mão, có Hóa Lộc hay Hóa Quyền hoặc Lộc Tồn đồng độ, và có Tả Phù Hữu Bật, Thiên Khôi Thiên Việt hội chiếu là chủ về cực quý. Cự Môn và Thiên Cơ ở cung Dậu tuy có cát tinh Hóa Lộc, Hóa Quyền hoặc Lộc Tồn đồng độ vẫn chủ về quý nhưng không hiển, phú mà không bền. Các cung vị trên đều lấy tiêu chuẩn tam phương tứ chính không gặp Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh là hợp cách.
Sao Cự Môn đồng độ với sao Thiên Đồng ở cung Sửu hoặc Mùi chủ về có hình khắc, khổ cực, nhiều thị phi. Hóa Quyền, Hóa Lộc tuy tốt nhưng không được lâu.
Cự Môn ở cung Tuất, Hóa Lộc, Hóa Quyền là kỳ cách (cách đặc biệt), bởi vì Thái Dương ở cung Ngọ là mặt trời ở giữa trời, hội chiếu Cự Môn, thì khí u ám tan hết.
Bình chú:
1. Bất cứ chính diệu nào cũng đều có mặt cát lợi và mặt không cát lợi, không có ngoại lệ, chẳng qua sao Cự Môn ở trong phần lớn tình huống dường như đều mạnh về tính chất không cát lợi, mà khá yếu về tính chất cát lợi. Cự Môn là ám diệu, nhưng không phải nói sao này hắc ám, mà nó thích che ánh sáng của các sao khác, khiến cho mờ tối, mất ánh sáng. Do đó cần phải thấy Thái Dương nhập miếu mới cát lợi, Thái Dương lạc hãm thì vô phương hóa giải được tính chất u ám của nó.
2. Tính chất của Cự Môn là ở 12 cung tinh bàn tuy có chỗ khác nhau, song tính chất " Lời qua tiếng lại, thị phi", " tranh chấp ra mặt hay ngấm ngầm đấu nhau" trong số đó thì 12 cung đều như vậy. Cho nên nó rất ghét thấy Hóa Kỵ, Kình dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh. Thông thường hễ vận dụng được lời nói vào công việc thì có thể giảm bớt sự bất lợi về lời qua tiếng lại thị phi. Ở cung mệnh, cung tài bạch, hay cung sự nghiệp thì càng như vậy.
3. Cự Môn Hóa Quyền chủ về có quyền uy về phương diện lời nói, cho nên có ý nghĩa " làm thầy người ta", thích hợp làm thầy giáo, hoặc làm công tác diễn thuyết, có liên quan đến dạy học. Nếu thấy thêm Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Khoa, Thiên Tài thì sức thuyết phục của lời nói càng lớn, còn giảm bớt tính chất lời qua tiếng lại thị phi, bởi vì khẩu tài có khả năng thuyết phục người khác, cho nên giảm bớt thị phi.
4. Cự Môn tương hội, đồng độ hoặc đối cung với Thái Dương là kết cấu tốt nhất trong tinh hệ Cự Môn, có điều Thái Dương cần phải nhập miếu, thừa vượng mới tốt. Tổ hợp Cự Môn và Thái Dương tất sẽ ở bốn cung độ: Cung Dần, Cung Thân, Cung Tị và Cung Hợi. Ở cung Dần hoặc Thân thì Thái Dương và Cự Môn đồng độ (đồng cung), còn ở cung Tỵ và Hợi thì Thái Dương vây chiếu (xung chiếu) Cự Môn. Mà Thái dương ở cung Dần và Tỵ là miếu vượng, cho nên Cự Môn ở Cung Dần và cung Hợi là tốt nhất, chủ về "quang minh lỗi lạc", nếu thấy thêm Văn xương, Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt thì chủ về được quý, thấy Hóa Lộc, Lộc Tồn, Thiên Mã thì chủ về được Phú.
5. Cự Môn thủ mệnh ở cung Tí hoặc cung Ngọ, đó là cách " Thạch trung ẩn ngọc" " Ngọc ẩn trong đá", nguyên do có tên này là bởi vì, cách cục này tất có cái đẹp ở bên trong, nhưng không phải một sớm một chiều là có thể nhìn thấy được, mà phải mất nhiều thời gian tiếp cận và quan sát, mới có thể phát hiện được ưu điểm ở trong đó, giống như một miếng bảo ngọc ẩn trong khối đá, cần phải đem khối đá loại bỏ hết tạp chất đi, mới thấy được cái đẹp bên trong đó.
Tình huống cụ thể là, tài năng và ưu điểm tính cách của mệnh tạo phải trải qua một thời gian mới lộ ra. Lục Bân Triệu đã nêu ra trường hợp như thế nào mới kể là nhập cách, nếu thấy thêm các cát tinh Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc thì có thể " Phú quý song toàn" song " không nên tới đỉnh tối cao" hễ ở vào địa vị lãnh đạo tối cao nhất định sẽ bị chèn ép, đả kích, làm bia cho người ta bắn, cho nên thà ở địa vị phó mà tay nắm thực quyền, nhường cho người khác chức danh lãnh đạo thì tốt hơn so với gắng gượng lộ diện lãnh công.
6. Cự Môn và Thái Dương đồng độ ở cung Dần hoặc cung Thân, thì cung Dần là tốt, đây là tượng mặt trời mộc ở phương đông, chủ về mệnh tạo có khí phách lớn, có hằng tâm, có chí phấn đấu, có thể thành tựu sự nghiệp lớn, nếu thấy thêm các cát diệu và cát hóa thì càng đẹp. Cung Thân tuy tốt, nhưng lại thiếu hằng tâm, làm việc mau nguội sự nhiệt thành, đây là sự khác biệt giữa Thái Dương lúc mặt trời mọc và lúc mặt trời lặn. Thái Dương và Cự Môn ở cung Thân lúc còn trẻ có chút thành tựu, có điều không thể tiếp tục tiến bộ (càng về già càng đi xuống). Thái Dương và Cự Môn mà có thể " danh lợi song thu", đại để là vì: Thái Dương mà được cát hóa thì chủ về có tiếng tăm lớn, Cự Môn mà được cát hóa thì chủ về tiền tài nhiều. Ngoài ra, Thái Dương và Cự Môn là tinh hệ chủ về người ngoại quốc và nước ngoài. Do đó cũng lợi về thành danh được ích lợi ở trong vòng ảnh hưởng của người ngoại quốc, cho nên mới có thuyết " thanh danh lừng lẫy ở tha phương", song phải là Thái Dương thừa vượng nhập miếu mới đúng.
7. Cự Môn ở cung Tị, do đối cung là cung Hợi có Thái Dương lạc hãm, Thái Dương là phụ tinh (sao cha), cho nên có hình khắc đối với phụ thân, chủ về " tổn thương cha", hoặc bản thân lúc nhỏ hay bệnh nặng, khiến cho cha phải lo rầu. Nếu thấy thêm các sát tinh Hình, Kị, Hao, thì ngoại trừ có hình khắc ra, cuộc đời còn gặp nhiều trắc trở, tai ách, cho nên cần có " Nghề chuyên môn" làm bảo bối phòng thân.
8. Cự Môn và Lộc Tồn đồng độ chủ về thu nhập dồi dào, nếu thấy thêm các cát diệu và được cát hóa thì có thể trở thành giàu có, nhưng phát mà cũng không hoang phí. Nếu nhìn từ một góc độ khác thì có hơi keo kiệt, song cũng đều là vì chăm lo cho sinh hoạt cần thiết gia đình mà thôi.
9. Cự Môn Hóa Lộc thì lợi về tài vận, Cự Môn hóa Quyền thì lời nói có quyền uy, thảy đều tinh tượng có " Khí Phách" và " giỏi sáng lập sự nghiệp" nếu có thêm các cát diệu Hóa Lộc thì càng cát lợi. Chẳng hạn như có Lộc Tồn, Hóa Lộc đồng độ thì tài khí càng đại vượng, không chỉ chủ về quý mà cũng chủ về phú.
Cự Môn được cát hóa ở cung Hợi, do Thái Dương ở cung Vượng cho nên cát, nhưng do ánh sáng Thái Dương quá mạnh nên sẽ có khuyết điểm " song tài năng quá lộ, chí cao mà khí ngạo, nên dễ bị người chỉ trích", loại mệnh cách này nên giấu bớt ngạo khí thì sẽ phúc trạch, có thể được người yêu thích.
10. Cự Môn ở cung Thìn, có Thiên Đồng vây chiếu, được cát hóa mà thấy Lộc Tồn là cách cục giầu có, còn đối cung Thiên Đồng được cát hóa là bậc thứ, không mạnh bằng Cự Môn được cát hóa.
11. Ngoại trừ tình huống đã thuật ở bên trên, Lục Bân Triệu còn nêu ra tinh hệ Cự Môn cát lợi khác, chủ yếu đều là căn cứ Cự Môn Hóa Lộc, Hóa Quyền, thấy Lộc Tồn, đó là then chốt để phát đoán Cự Môn ở cung Mệnh có đại cát hay không. Còn về Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc thì chỉ là phụ trợ mà thôi, có điều ý nghĩa của Văn Xương, Văn Khúc cũng khá trọng yếu. Bởi vì Xương Khúc thì có tài hoa, lời nói có sức thuyết phục, có thể chinh phục người khác, cho nên giảm bớt cơ hội bị người chỉ trích, bất mãn.
Ngoài ra Cự Môn tương hội tứ sát tất nhiên sẽ dẫn đến lời qua tiếng lại, tranh chấp thị phi. Cho nên cần phải không thấy tứ sát, nếu không cuộc đời sẽ gặp trở lực rất lớn, thành tựu sẽ giảm đi rất nhiều.
Sao Cự Môn đến cung mệnh, chủ về người sắc mặt xanh vàng. Có Thái Dương đồng độ hoặc hội chiếu thì chủ về sắc mặt hồng trắng hoặc hồng vàng. Khuôn mặt hình chữ nhật dài hoặc tròn dài. Nhập miếu hoặc có Thái Dương ở cung Tị, cung Ngọ thì chủ về béo mập, thân hình trung bình cao, nếu không sẽ chủ về thân hình trung bình, hoặc gầy nhỏ. Tính tình trung hậu, mặt mày thanh tú, có nghề chuyên môn, khéo ăn nói, hay hùng biện. Có lòng chính nghĩa, không có việc gì mà lại bận rộn tất bật, học nhiều mà ít tinh, có thể học về Pháp Luật, cơ giới, y học và tinh tướng tạp nghệ, hoặc làm thầy mọi người, lãnh đạo bang hội. Ưa nhất là Hóa Quyền, Hóa Lộc và Lộc Tồn chủ về vừa phú vừa quý. Nếu Hóa Kỵ thì lời qua tiếng lại liên miên, tai họa tơi bời. Phàm làm việc gì cũng nhiều nghi ngờ mà ít quyết đoán, tiến thoái bất định. Có Đà La đồng cung thì trong mình có nốt ruồi lạ. Có Kình Dương, Đà La, Hỏa Linh, Kiếp Sát, Thiên Hình mà không có Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền hóa giải thì chủ về xảy ra tình hình xem nhẹ mạng sống như tự tử, đâm đầu xuống sông, uống thuốc độc, hoặc gặp hỏa tai, bị điều ra tiền tuyến, bôn ba ngàn dặm, làm việc điên đảo, hoàn toàn không có chủ trương.
Nữ mệnh có sao Cự Môn lâm mệnh cung, nhập miếu hoặc có Lộc Tồn, Hóa Quyền, Hóa Lộc thì chủ về vừa phú vừa quý, hơn nữa, thọ mệnh rất dài. Nếu lạc hãm hoặc Hóa Kị thì miệng tiếng, ghét người, nhiều thị phi. Nếu có Kình dương, Đà La, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên Hình hội chiếu thì chủ về hình khắc, thọ yểu, lấy kế thất, vợ lẽ là thích hợp, song vẫn nhiều tranh giành đấu đá.
Lưu niên đại hạn có sao Cự Môn đến, đồng độ với Hóa Quyền, Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn thì chủ về sự phát triển sự nghiệp, có thể sáng lập đại nghiệp, thành đại sự, mọi việc thấy hung mà thực ra là cát, danh lợi song thu. Nếu Hóa Kỵ hoặc hội chiếu Kình dương, Đà La, Hỏa Linh thì chủ về tai họa kiện tụng, lao ngục, hình khắc hoặc gặp hỏa tai, binh lửa, trộm cướp, nhiều tai họa vô vọng.
Bình chú:
1. Liên quan về hình dáng tướng mạo của Cự Môn tọa mệnh, Lục Bân Triệu đã nói về đại thể, song còn có thể bổ sung một số điều. Phàm là Cự Môn thủ mệnh, Thái Dương vây chiếu thì chủ về lông khá dài, điều này đối với nữ mệnh càng rõ rệt.
2. Cự Môn tọa mệnh mà "mặt mày thanh tú" thì phải là Cự Môn ở cung độ miếu vượng, hơn nữa còn thấy cát diệu và cát hóa, tam phương tứ chính không gặp sát diệu Hóa Kị mới đúng.
Cự Môn tương hội Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Khoa, Thiên Tài thì chủ về " Khéo ăn nói, hay hùng biện". Thấy Tả Hữu, Khôi Việt thì chủ về " Có lòng chính nghĩa, tính tình trung hậu". Thấy Long trì, phượng các, Thiên Tài, Hóa Khoa thì chủ về " có nghề chuyên môn". Thiên Cơ đồng độ thì chủ về " học nhiều mà ít tinh". Thấy Hỏa Tinh, Linh Tinh thì chủ về " Không có việc gì mà lại bận rộn tất bật".
3. Về phương diện nên và kị trong sự nghiệp, Cự Môn Hóa Quyền thì lợi về học "Pháp Luật", có thể làm luật sư. Tương hội Địa Không, Địa Kiếp, Hỏa Linh, Long Trì, Phượng Các thì thích hợp với nghành "cơ giới". Tương hội Kình dương, Thiên Hình, Thiên Nguyệt, Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Khoa thì thích hợp với " Y học", làm bác sĩ, thầy thuốc, hoặc là các chuyên nghành về y liệu khác như chuyên viên vật lý trị liệu, chuyên viên châm cứu.... cũng có thể làm bác sĩ ngoại khoa, hoặc là thầy thuốc chữa trật đả. Cự môn gặp Văn Xương, Văn Khúc nhất là Văn Xương Hóa Kị hoặc Văn Khúc Hóa Kị lại có thêm Thiên Không thì nên học "tinh tướng", tức các môn thuật số như mệnh lí, bốc dịch, tướng thuật....
Ngoài ra, Cự Môn Hóa Quyền mà gặp Văn Xương, Văn Khúc thì thích hợp làm " Thầy của mọi người", tức công tác giáo dục. Nếu là Cự Môn Hóa Kị lại thấy thêm Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Kình dương, Đà la, Hỏa Tinh, Linh tinh, Lộc Tồn thì "lãnh đạo bang hội", phất lên làm giàu trong bàng môn hắc đạo.
4. Cự Môn được cát hóa mà gặp Lộc Tồn thì chủ về " vừa phát phú vừa quý", phân biệt cụ thể là: Cự Môn Hóa Lộc thì lợi về dùng lời nói để kiếm tiền, chủ về giàu có, Cự Môn Hóa Quyền thì lời nói có sức thuyết phục, chủ về sang quý. Lộc tồn cũng chủ về phú cách.
Còn Cự Môn Hóa Kị, về cơ bản thì đại đa số ứng nghiệm đều bất lợi, thấy nó thì không thể coi thường, sát nhẹ là " Lời qua tiếng lại liên miên" sát nặng thì " tai họa tơi bời". Về phương diện tính cách thì chủ về " nhiều nghi ngờ mà ít quyết đoán, tiến thoái bất định", cũng vì vậy mà không lợi về quan hệ giao tế. Lục Bân Triệu cũng đã chỉ ra, Cự Môn Hóa Kị mà thấy đủ các sát diệu thì chủ về có khuynh hướng tự sát, đây là do gặp nhiều trắc trở, thất lợi dẫn đến, cũng chủ về các tai ách khác, tính cách khá phức tạp.
5. Nữ mệnh Cự Môn nhập miếu được làm cho tốt lên, thì là mệnh vợ hiền tương phu giáo tử. Ở cổ đại (ngày xưa), cũng chủ về có thể lấy người chồng hiền lương, có thể phú quý, ở hiện đại (ngày nay), cũng chủ về tài năng cá nhân của nữ mệnh. Loại nữ mệnh này, phúc trạch cuộc đời cũng có phần thâm hậu, nếu có thêm Thiên Phúc cùng Thiên Thọ thì khỏe mạnh trường thọ.
Nữ mệnh Cự Môn Hóa Kị thì phải là đàn bà lắm lời, lắm chuyện thị phi, nên tích khẩu đức, làm nhiều mà nói ít lại. Cự Môn ở cung Mùi lạc hãm, nhưng nếu không hóa Kị thì không chủ về đàn bà lắm lời. Nữ mệnh Cự Môn mà thấy các sát diệu Hình, Hao, ngoại trừ luận đoán của Lục Bân Triệu, còn có thể luận như Nam mệnh.
6. Lưu niên đại hạn tới Cự Môn thủ cung mệnh, dù thấy cát diệu và hóa cát vẫn cần chú ý sau khi đã thành tựu, được tài phú, không được cao ngạo. Còn có phải " sáng lập đại nghiệp" hay không, thì cần phải xem mệnh cách nguyên cục mà định.
Cự Môn Hóa Kị ở cung hạn, tính chất cơ bản nhất là lời qua tiếng lại, thị phi, sát Hình Hao mà nặng thì nên đề phòng tai ách. Song vẫn cần phải xem tình huống của mệnh cung nguyên cục mà định, không thể luận đoán bừa được.
Hóa khí là Ám, chủ thị phi, đa nghi
Cự Môn là sao về nói năng, ngôn ngữ nên chủ có tài ăn nói, phù hợp với những ngành nghề cần đến giao tiếp, có sở trường xử lý các mối quan hệ công cộng, nên vào cách cục tốt có khả năng trở thành nhân tài ngoại giao. Cự Môn nhập Mệnh mà đương số không làm việc liên quan đến ăn nói thì dễ trở thành người hay ngồi lê đôi mách, buôn chuyện thị phi, điều này càng rõ khi Cự Môn gặp sát kỵ tinh tại Mệnh Tài Quan.
Cự Môn hóa ám, chủ lo lắng buồn phiền, cũng chủ vất vả. Nên Cự Môn tọa Mệnh tại bất cứ cung vị nào, cho dù có cát tinh hội chiếu, cũng chủ tuổi trẻ vất vả, phải phấn đấu gian khổ mới có thành tựu, gặp sát tinh nặng thì càng vất vả hơn, mà thành tựu thì còn phải xét.
Cự Môn cũng là một tài tinh, nên rất đẹp khi Cự Môn Hóa Lộc hoặc đồng độ với Lộc Tồn chủ phát tài.
Cự Môn Hóa Quyền ở đất miếu vượng thì lời nói có quyền uy phần nhiều trở thành nhà ngoại giao có tài ăn nói, đảm đương chức vị quan trọng, nếu không cũng sẽ trở thành bậc thầy nổi tiếng, có nhiều học trò đệ tử . Cự Môn Hóa Quyền nhập Mệnh khả dĩ rất có khí phách, giỏi sáng lập sự nghiệp, rất cần thêm Hóa Lộc, Lộc Tồn thì phú quý đầy đủ.
Cự Môn không có khả năng kháng cự với sát kỵ tinh, đặc biệt là Kình Đà Kỵ. Cự Môn Hóa Kỵ thì ăn nói khó nghe nhưng lại nói nhiều, gây phản cảm cho người khác, chuốc lấy điều tiếng thị phi, có khuynh hướng bất mãn với hiện thực, nếu lại gặp sát tinh, dễ gây vạ miệng mà gặp kiện tụng. Cự Môn Kình Đà cũng chủ thị phi, ngoài ra còn làm cho tình duyên thêm trắc trở.
Tinh hệ kết cấu tốt nhất của Cự Môn là khi đồng cung với Thái Dương sáng, hay được Thái Dương sáng vây chiếu, cụ thể là Cự Nhật tại cung Dần, và Cự Môn tại Hợi được Thái Dương vượng tại Tỵ chiếu. Cự Môn là ám tinh, nên khi được Thái Dương sáng chiều chủ quanh minh lỗi lạc, thêm cát tinh chủ quý, thêm tài tinh chủ quý.
Tinh hệ Cự Môn Tý Ngọ cũng là thuộc cách cục tốt “Thạch Trung ẩn ngọc”, chủ có tài năng, nhưng bị ẩn bên trong, phải trải qua thời gian mới dần lộ ra. Cách cục này cần thêm cát tinh mới kể là tốt, và cũng không nên đứng ở vị trí lãnh đạo tối cao kẻo dễ bị đả kích, mà nên ở vị trí phó, quân sư. (Còn một cách cục khá đẹp là Cự Cơ Mão Dậu, nhưng đây là cách cục chính lấy Thiên Cơ làm chính, nên không nêu ở đây).
Tóm lại, do Cự Môn là tài tinh, ám tinh nên kết cấu thực sự tốt của Cự Môn phải lấy Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc Tồn (kích hoạt tính chất tài tinh) hay Thái Dương miếu vượng, Xương Khúc Khoa (giảm bớt tính chất ám tinh, phát tính tài tinh) làm chính, nếu hội tụ cả hai thì càng hoàn mỹ.
Cự môn là ngôi sao về nói năng, nên chủ về có tài ăn nói, phù hợp với những ngành nghề cần giao tiếp, năng nói, có sở trường xử lý các mối quan hệ công cộng, nên có khả năng trở thành nhà ngoại giao. Nhưng, cũng vì nói nhiều, dễ rước lấy điều tiếng thị phi, lại khó tránh được đố kị, hiềm khích, cạnh tranh, nên không hợp với mệnh nữ. Trừ khi theo những nghề như giáo viên, biểu diễn, ngoại giao, quảng cáo marketing, nếu không rất dễ trở thành ngôi lê đôi mách, buôn chuyện thị phi.
Sao Cự môn hóa ám, chủ về lo lắng buồn phiền, cũng chủ về vất vả. Nằm tại bất lỳ cung vị nào, bất kể có Cát tinh ở tam phương hiệp trợ hay không, đều chủ về tuổi trẻ vất vả, phải phấn đấu gian khổ rất nhiều mới có được thành tựu.
Sao Cự môn ưa gặp Hóa Lộc, tăng cường lý tính và mức độ hoạt ngôn, lại có thêm uy quyền. Nếu sao Cự môn miếu, vượng gặp Hóa Quyền, lại gặp lục Cát tinh, phần nhiều đều trở thành các nhà ngoại giao có tài hùng biện, đảm đương những chức vụ quan trọng. Nếu sao Cự môn không ở cung miếu, vượng mà gặp được Hóa Quyền, sẽ trở thành bậc thầy nổi tiếng, nhiều học trò đệ tử.
Sao Cự môn cũng nên Hóa Lộc tại cung miếu, vượng, chủ về có khẩu phúc (được ăn ngon), đồng thời tăng cường phần cảm tính và tài hùng biện. Nếu như lại gặp thêm Cát tinh, chắc chắn sẽ thành tựu về sự nghiệp. Nếu như Hóa lộc lại gặp Hồng loan, Thiên hỷ, Văn xương, Văn khúc, Thiên diêu, Hàm trì, Hóa Khoa, nên phát triển trong lĩnh vực biểu diễn, diễn xuất, khả năng trở thành nghệ sỹ có danh tiếng. Sao Hóa lộc, Hóa quyền của Cự môn có tửu lượng tốt, được hưởng khẩu phúc.
Sao Cự môn không có khả năng kháng cự với lục Sát tinh và sao Hóa Kị, nhất là khi gặp Kình dương và Đà la, sẽ khiến cho đường tình duyên gặp nhiều sóng gió trắc trở. Nếu gặp Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp chủ về vất vả trắc trở. Khi sao Cự môn Hóa Kị thì ăn nói khó nghe nhưng lại nói quá nhiều gây phản cảm cho người khác, tự chuốc lấy điều tiếng thị phi, có khuynh hướng bất mãn với hiện thực, dễ gây nên vạ miệng mà bị kiện tụng.
Sao Cự môn nếu gặp Thái dương thì cát hung lẫn lộn. Gặp sao Thất sát chủ về bị sát thương. Gặp Tham lang, Phá quân dễ bị tù tội lưu đầy. Gặp Tử vi sẽ khắc chế được tính cách ngoan cố của Cự môn. Gặp Lộc tồn sẽ giải trừ được tai ách. Gặp Kình Đà trai làm giặc cướp gái dâm tà. Nếu tại cung đối xung có Hỏa tinh, Linh tinh, Bạch hổ, mà không có sao Tử vi trấn áp hay Lộc tồn hóa giải, dễ bị đầy ải hoặc xung quân đến phương xa. Tam phương hội Sát trùng điệp ức hiếp, là thần hà khắc, dễ trở thành số cô độc, dễ gặp hỏa hoạn. Nếu theo nghiệp cửu lưu sẽ tránh được vất vả. Hai hạn gặp hung tinh tai họa không nhẹ.
Sao Cự môn và sao Thái dương trấn mệnh tại Dần hoặc Thân, là cách "Cự Nhật đồng cung", có tài ăn nói hùng biện, vất vả trước thành công sau. Sao Cự môn trấn mệnh tại Tý hoặc Ngọ, cung vị tam phương tứ chính có thêm hóa Lộc, hóa Quyền hoặc hóa Khoa hiệp trợ, là cách "Thạch trung ẩn ngọc" (Ngọc ẩn trong đá), bất khuất kiên cường, khi trẻ vất vả trung niên sẽ có thành tựu. Sao Cự môn nhập Thân cung lạc hãm tại Thìn hoặc Tuất, lại gặp bốn Sát tinh Kình Đà Hỏa Linh tại cung mệnh, là cách "Cự phùng tứ sát", nếu không có Cát tinh ứng cứu, dễ vì trốn tội mà lưu lạc tha hương. Sao Cự môn và Thiên cơ cùng trấn mệnh tại Dậu, tại Dậu hoặc cung vị tam phương tứ chính gặp Hóa Kị, là cách "Cự Cơ hóa dậu", làm việc gì cũng không thành tựu, mệnh nữ ắt phá bại, phiêu đãng vô định.
Người có sao Cự môn tọa thủ cung Mệnh, thường ánh mắt nhìn đoan chính, vẻ mặt nghiêm túc, giọng nói cao mà thanh, hành động nhanh nhẹn. Nhập miếu thì cơ thể cao đậm, nhìn vẻ bề ngoài toát ra hình thức là người phúc hậu lương thiện, lạc hãm thì thân thể cao gầy.
Ngay thẳng bộc trực, tính đa nghi, có khuôn mặt thánh thiện khả ái, cũng có vẻ mặt hiền lành ít nói. Lục thân thiếu hòa hợp, là người chủ quan lại tự tin, thường hay tỏ thái độ bất mãn với hiện tại, nên thích gây chuyện thị phi, lúc thiện lúc ác thường không biểu hiện lộ ra ngoài mặt. Học nhiều nhưng ít tinh thông, phong cách làm việc thường tỏ ra khó khăn vất vả nên khó có được sự thanh nhàn thảnh thơi.
Tính tình đa nghi, kết bạn với mọi người ban đầu thì tốt nhưng cuối cùng lại ác. Tư duy lãnh đạm, trong lòng nhỏ nhen hiếm khi rộng lượng, làm việc lớn thường quá chú trọng tới hình thức mà bỏ qua khả năng phân tích, khả năng quan sát, khả năng phán đoán tình huống, khả năng ghi nhớ, và khả năng liên tưởng. Tuy nhiên, là người giầu khả năng nghiên cứu, nên thường có tầm hiểu biết rộng, có sáng kiến, dù không giao tiếp nhưng khả năng biểu đạt lại rất tốt, biện luận sắc sảo. Có xu hướng sống cuộc đời thanh bạch, ít thiên về thú vui của cuộc sống, lấy công việc là mục đích hành đầu.
phụ nữ cung mệnh có sao Cự môn thường có lòng tự tôn rất cao, bụng thẳng dạ ngay, sức sống mạnh mẽ, đa nghi, thường hay tự so bì với người khác mà tự chuốc lấy phiền muộn trong lòng. Khi can thiệp vào chuyên gia đình hay công việc của chồng, thường thiếu thận trọng trong ngôn ngữ, lời nói phản cảm thường gây tổn thương bầu không khí hạnh phúc, ấm cúng. Làm việc chăm chỉ cần mẫn, xử lý mọi việc trong gia đình chu đáo, công việc và gia đình đều đảm nhiệm tốt.
Cự môn là miệng, cho nên sao Cự môn tượng trưng cho "miệng", nói chung không thể tách rời khỏi "miệng", có "khẩu phúc", giỏi quan hệ công chúng, phần nhiều là những người gây dựng sự nghiệp bằng "miệng", như giáo sư, quan tòa, luật sư, nhà ngoại giao, người dẫn chương trình, người làm việc kinh doanh đối ngoại, nhân viên kinh doanh, ca sỹ, diễn viên, nghề dịch vụ công hay tư, ... đồng thời còn thiên về việc xử lý các mối quan hệ chung.
Sao Cự môn phần nhiều là nói về "miệng", cho nên ngay thẳng bộc trực là ở "miệng", nhưng "ngôn đa tất thất" là nói về người phụ nữ thị phi, cho nên sao Cự môn không nên xuất hiện trong mệnh của nữ giới.
"Thị phi" của sao Cự môn không phải là có ý gây chuyện "thị phi", người mệnh sao Cự môn có khả năng phân tích rất tốt, rõ ràng là rất "thị phi", cố gắng không nên gây những chuyện "thị phi", nhưng cũng khó có thể thoát khỏi những chuyện "thị phi".
Ba sao Cự môn, Tham lang và Thiên cơ, đều thuộc kiểu giao tiếp hướng ngoại, nhưng tính chất của chúng lại có sự khác biệt. Sao Tham lang đa tài đa nghệ, tính chất giao tiếp của nó thiên về trường phái lãng mạn: tửu, sắc, tài, khí; Sự giao tiếp của sao Thiên cơ thiên về liên lạc giao thiệp, vì người mà bôn tẩu vất vả; Sao Cự môn thì dùng "miệng" là chính, thiên về diễn giảng biện thuyết đúng sai, phải trái.
Sao Cự môn và sao Văn khúc đều thiên về tài biện luận ăn nói, nhưng tài biện luận ăn nói của sao Văn khúc phần nhiều thuộc về kỹ xảo biện luận, chú trọng tu từ mà lời nói hướng thiện, cũng mang hàm nghĩa "tài" và "đào hoa". Tài biện luận ăn nói của sao Cự môn thì lại chú trọng đến thực tế, gồm có phân tích và liên tưởng, cũng có nội dung nhưng "tài khí" thì lại tương đối ít.
Khí hóa của sao Cự môn là ám, trong bóng tối có thể thấy được ánh sáng bên ngoài, cố nhiên sao Cự môn với khả năng quan sát sự vật một cách thấu đáo hơn người, phần nhiều có những biểu hiện như sau:
1. Bất luận ở hoàn cảnh khó khăn nào, phần lớn đều có thể tháo gỡ được trở ngại khó khăn bước đầu, biết hy vọng vào tương lai.
2. Khoan dung độ lượng, biết khoan dung hơn nữa còn hiểu đạo lý.
3. Có khả năng hội nhập được cuộc sống đa dạng muôn mầu, và có biểu hiện cụ thể bằng ngôn ngữ, hành động, dễ được mọi người chấp nhận và hoan nghênh.
4. Có thể hiểu được sự việc và truyền đạt thông tin, hóa giải khúc mắc.
5. Nằm giữa ranh giới thị phi và chính trực, nhưng không bị mất đi bản tính lương thiện, mà còn giữ được đạo trung dung.
6. Có chuyện thầm kín trong lòng không thể bày tỏ với người khác, hoặc là dấu đầu hở đuôi.
7. Thường rơi vào ảo tưởng mà tự chuốc lấy phiền muội, thậm chí còn tự hủy hoại mình.
8. Nhàn rỗi, càng nói càng sai, thường khổ tại miệng, bị người khác hiểu lầm oán trách.
9. Trước khi được xã hội công nhận, phải trải qua nhiều vất vả, chỉ cần giữ vững ý chí, cuối cùng cũng thành công.
10. Mạnh bạo hơn người, thường làm những chuyện mà mọi người không ngờ tới, hoặc những việc mà không được mọi người tán thành, khiến mọi người bàn tán.
11. Cơ hội sự dụng ngôn ngữ hơn người, cũng thường vận dụng tài ăn nói của mình mà đạt được lợi ích.
12. Cuộc đời có nhiều cơ hội phải đấu tranh.
Người có sao Cự môn thủ mệnh, nên theo những nghề dùng miệng là chính, có thể nên học và tinh thông nhiều thứ tiếng ngoại ngữ, để có cơ hội làm việc theo phương thức chính phái, qua đó, bản tính thị phi dễ bị "phê bình" thường sẽ chuyển biến sang xu hướng "giám sát đúng sai", "đánh giá sự hoàn thiện", phát huy khả năng phân tích có tính thực tiễn của sao Cự môn. Ngoài ra, người có sao Cự môn thủ mệnh, cuối đời phần lớn đều nhận được sự chăm sóc của con cháu.
Sao Cự môn cũng là sao đơn độc, duy có sao Lộc tồn mới có thể hóa giải được. Sao Cự môn thâm nhập vào các cung Lục thân, chủ về phần lớn người đó bạc duyên với lục thân, nếu không kết hợp với sao Lộc tồn, hoặc đồng cung với sao Hóa Lộc, thì tâm thần thường thường dễ bất an, hoặc có hiện tượng cô đơn.
Sao Cự môn được tam cát hóa Lộc Quyền Khoa, chủ về bổng lộc dồi dào, tài diễn thuyết hùng biện được trọng dụng phát huy. Song tính chất lại có sự khác biệt: Hóa Lộc mà lại mang cảm tính, hiền lành không cưỡng bức, quan sát tình cảnh nói chuyện. Hóa Quyền giảng lý mà mang tính quyền uy, trật tự rõ ràng, tăng thêm trọng lượng lời nói, hơn nữa còn tăng thêm lòng tin và độ tin cậy vào người khác mà giảm bớt chuyện thị phi. Hóa Khoa là lời nói nho nhã, mang phong thái của người quân tử.
Sao Cự môn thích nhất là Hóa Quyền, khi miếu vương Hóa Quyền, lại kết hợp thêm lục Cát tinh, thì phần nhiều là người làm quan lớn gánh vác trách nhiệm ngoại giao. Nếu không thuộc miếu vượng mà gặp sao Hóa Quyền, thì cũng là người gánh vác trọng trách. Khi sao Cự môn nhập miếu vượng Hóa Lộc, có thêm cát tinh hội chiếu, chủ về sự nghiệp sẽ được thể hiện thấy rõ, nếu Hóa Lộc lại gặp Hồng loan, Thiên hỷ, Văn xương, Văn khúc, Hàm trì, thì nên phát triển theo hướng văn hóa nghệ thuật, biểu diễn giải trí, phần nhiều sẽ thành danh trên con đường này.
Sao Cự môn không thích gặp Hóa Kị, ngôn từ sắc bén, nói chuyện khó nghe, lại thích nói chuyện, dễ khiến cho người phản cảm, đắc tội với người mà không biết. Nếu sao Hóa Kị lại gặp phải Sát tinh, thì nên chú ý chuyện thị phi nơi quan trường.
Sao Cự môn kỵ nhất gặp sao Kình dương và sao Đà la, chủ về chuyện tình cảm gặp nhiều sóng gió, một lời không thể nói hết được, phần lớn là những chuyện thị phi mang tới. Sao Cự môn gặp phải Hỏa tinh, Linh tinh thường tăng thêm phần khó khăn. Cự môn đồng độ cùng Địa không, Địa kiếp tọa thủ cung mệnh, chủ về một đời vất vả, thậm chí thời thơ ấu còn bị bỏ rơi.
Cự môn, là sao thứ 2 trong Bắc đẩu thất tinh. Thuộc thủy (có thuyết cho rằng Thủy đới kim). Là sao thiên về Âm tính. Bởi thế, hóa khí của nó là Ám tinh (che ám). Nhập Thân Mệnh là Hung tinh, chủ về thị phi khẩu thiệt, chính vì vậy mà phú mới viết rằng “Cự môn định chủ thị phi”.
Nhưng phàm là chính tinh, thì kiểu gì cũng phải có uy lực, tức là cũng phải có mặt tốt. Một trong những cái tốt của Cự môn là lợi tài, lợi cho việc tranh đoạt, hoạt ngôn đa ngữ. Bởi Cự môn được coi là Thần chuyên trông coi về Phẩm chất của vạn vật. Tức là chuyên về nhận xét cái tốt, cái xấu của vạn vật. Cho nên mới gán cho nó cái tiếng “Thị Phi”. Cũng chính vì điểm này mà phát sinh nhiều quan điểm chưa được đánh giá đúng mức về Cự Môn.
Luận về Cự Môn thì có 2 tính chất đại biểu rất quan trọng đó là “Khẩu thiệt thị phi” và “Minh tranh ám đấu”.
Khẩu thiệt thị phi, tức là nói đến việc hay dính dấp vào chuyện miệng lưỡi – đúng sai, hay tiếp xúc, hay gặp phải những chuyện liên quan đến lời ăn tiếng nói, đến chuyện đúng sai của cuộc sống. Điều này cần phải hiểu cho đúng, vì không thể có định kiến cứ cho rằng “khẩu thiệt thị phi” là đặc tính không tốt! nhưng nên nhớ rằng cái gì cũng có mặt lợi mặt hại, ví thử như nếu làm những nghề về thương trường, về biện hộ, cần đến sự ăn nói linh hoạt, thì đôi khi sự biến báo ngôn ngữ của Cự Môn lại là một đặc tính quý giá.
Minh tranh ám đấu, tức là nói đến cái sự tranh giành quyết liệt ! điều này cũng không có gì là lạ, khi ngôn ngữ giảo hoạt, hùng biện, thì không dễ gì chịu lùi bước. Phàm đã là chuyện tranh cãi thì đương nhiên cần phải cọ sát đề giành phần thắng. Nhưng cũng còn kèm theo 1 nghĩa nữa cần để ý, đó là cái tính không chịu nhường nhịn. Khi xảy ra tranh giành thường quyết liệt, khó lòng kiềm chế bản thân. Và cũng chính vì thế mà mắc cái tiếng “thị phi”. Hai tính chất này có quan hệ hữu cơ với nhau, cần chú ý khi luận đoán.
Cũng như nguyên tắc thông thường, khi luận về tinh diệu thì cái sự Miếu-Hãm là vô cũng quan trọng. Bởi cũng một tính chất như thế, nhưng Miếu thì khả dụng, mà Hãm thì sinh tai.
Cự môn Miếu ở Mão Dậu, Vượng ở Tý Ngọ Dần, đắc địa ở Thân Hợi. Đều là những đất tốt có thể làm cho cái tính “thị phi” “tranh đoạt” trở thành hữu dụng. Chủ về uy quyền, tài lộc. Còn những đất hãm của Cự Môn là Thìn Tuất Sửu Mùi Tỵ. Chỉ chuyên về thị phi chiêu oán, quan phi kiện tụng.
Trong đẩu số, cổ nhân viết về Cự Môn : “Tại thân mệnh nhất sinh chiêu khẩu thiệt chi phi; tại huynh đệ tắc cốt nhục tham thương; tại phu thê chủ vu cách giác, sinh ly tử biệt, túng phu thê hữu đối, bất miễn ô danh thất tiết; tại tử tức tổn hậu phương chiêu, tuy hữu nhi vô; tại tài bạch hữu tranh cạnh chi ý; tại tật ách ngộ hình kỵ, nhãn mục chi tai, sát lâm chủ tàn tật; tại thiên di tắc chiêu thị phi; tại nô bộc tắc đa oán nghịch; tại quan lộc chủ chiêu hình trượng; tại điền trạch tắc phá đãng tổ nghiệp; tại phúc đức kỳ họa sảo khinh; tại phụ mẫu tắc tao khí trịch”
Nghĩa là :
Tại Thân Mệnh một đời chiêu khẩu thiệt thị phi,
Tại Huynh Đệ thì anh em chợ búa với nhau,
Tại Phu Thê thì chủ về chia cách, sinh ly tử biệt, không khỏi ô danh thất tiết.
Tại Tử Tức thì không có hậu, tuy có mà như không.
Tại Tài Bạch thì ắt có sự tranh giành.
Tại Tật Ách mà gặp Hình kỵ, mắt có tật, thêm sát tinh mà lâm vào thì chủ tàn tật,
Tại Thiên Di thì ứt chiêu thị phi,
Tại Nô Bộc ắt là nhiều oán nghịch.
Tại Quan Lộc chủ về gặp hình trượng (pháp luật).
Tài Điền Trạch thì phá đãng tổ nghiệp,
Tại Phúc Đức họa không phải là nhỏ,
Tại Phụ Mẫu thì dễ bị bỏ rơi
Xem như trên thì thấy rằng mười hai cung Cự môn đóng đều không có chỗ nào tốt. Nếu nhận xét như thế thì cũng có phần khắt khe quá. Bởi như đã nói, còn phải căn cứ vào xem Miếu Hãm thế nào. Đến như Trần Đoàn lão tổ cũng còn phải nhận xét “Chí Hợi Dần Tỵ Thân, tuy phú quý diệc bất nại cửu” Tức là tại Dần-Thân, Hợi-Tỵ tuy có phú quý mà không bền.
Khi Cự môn nhập Thân mệnh, Trần Đoàn lão tổ nhận xét “chưởng chấp thị phi, chủ vu ám muội, nghi thị đa phi, khi man thiên địa, tiến thối lưỡng nan. Kì tính tắc diện thị bối phi, lục thân quả hợp, giao nhân sơ thiện chung ác” – Tức : “nắm cái sự đúng sai trong tay, mà lại chủ về ám muội, đúng thì nghi ngờ, mà nhiều điều sai trái. Khinh dối cả đất trời, tiến thoái đều khó. Về Tính thì trước mặt bảo đúng mà sau lưng bảo sai, không hợp với lục thân, giao kết với người thì ban đầu thiện mà về sau ác”.
Sở dĩ trong 12 cung, Cự môn không được cung nào tốt, bởi chính tại cái tính “khẩu thiệt thị phi” “minh tranh ám đấu” mà ra cả. Ta cũng phải nhìn nhận cho rõ, tính này có thể lợi ngoài xã hội nhưng với lục thân gia đình thì tuyệt nhiên không hợp. Bởi thể mới nói “Lục thân quả hợp”.
Nhưng ngoài những đặc tính trên, thì Cự môn cũng chủ về Tài khí. VÌ bản thân Cự môn là ngôi thứ 2 trong Bắc đẩu thất tinh, trong các môn thuật số khác thì Cự Môn được coi là Thiên Y, chủ về vật chất. Cho nên mới nói Cự lợi tài. Nhưng cũng cần phải chú ý, cái Lợi về Tài của Cự là do hệ quả của 2 tính chất trên mang lại, chứ tuyệt không phải là trực tiếp từ tính chất mà có giống như các Tài tinh khác. Vì thế mà chỉ dám nói là Lợi Tài, mà cổ nhân không dám phê là Tài Tinh.
Về Mệnh số con người, dù thế nào đi nữa, nhưng khi có Cự môn nhập vào Mệnh Thân, ắt sẽ không thể toàn vẹn. Bởi kể cả khi nhập Miếu cũng chỉ là Hư Cát. Cuộc đời ít nhiều sẽ có nhưng điều không được mỹ mãn, đặc biệt là trong quan hệ gia đình. Hơn thế nữa, vận trình cuộc đời ắt sẽ thăng trầm, ít nhất phải qua gian khó một thời mới mong thành nghiệp, luận về chỗ này, cổ nhân chỉ có một câu “kinh lịch gian tân”. Tùy thời xử thế, nên hay không là ở chỗ có HỢP hay không. Tinh diệu thì vốn có Miếu Hãm, mà sự đời thì cũng có ĐẮC-THẤT. Quy luật vận hành của tinh diệu cũng là quy luật vận hành của đời người. Muốn biết được thì nên xem xét cái chu kỳ vận hành của Cự và chòm Bắc đẩu trên 12 cung ắt sẽ sáng tỏ.
Tử vi đẩu số: Sao Cự Môn - Phần 1
Tử vi đẩu số: Sao Cự Môn - Phần 2
Tử vi đẩu số: Sao Cự Môn - Phần 3