Tử vi đẩu số: Sao Thái dương

Thái Dương vốn là mặt trời, đóng ở các cung ban ngày (từ Dần đến Ngọ) thì rất hợp vị, có môi trường để phát huy ánh sáng. Đóng ở cung ban đêm (từ Thân đến Tý) thì u tối, cần có Tuần, Triệt, Thiên Không, Thiên Tài mới sáng.

Riêng tại hai cung Sửu, Mùi, lúc giáp ngày giáp đêm, Nhật mất nhiều ánh sáng, cần có Tuần Triệt hay Hóa kỵ mới thêm rực rở. Ở Sửu, Thái Dương tốt hơn ở Mùi, vì mặt trời sắp mọc, hứa hẹn ánh sáng, trong khi ở Mùi, ác tà sắp lặn, Nhật không đẹp bằng.

Mặt khác, vốn là Dương tinh, nên Nhật chính vị ở các cung Dương, nhất là phù hợp với các tuổi Dương.

Nhật càng phù trợ mạnh hơn cho những người sanh ban ngày (từ giờ Dần đến giờ Thân), đặc biệt và lúc bình minh đến chính ngọ, thời gian mặt trời còn thịnh quang. Nếu sinh vào giờ mặt trời lên thì phải tốt hơn vào giờ mặt trời sắp lặn.

Sau cùng, về mặt ngũ hành, Thái Dương thuộc Hỏa, thích hợp cho những người mệnh Hỏa, mệnh Thổ và mệnh Mộc vì các hành của ba loại Mệnh này tương hòa và tương sinh với hành Hỏa của Thái Dương. Nhật cũng hợp với trai hơn gái.

Ý Nghĩa Thái Dương Ở Cung Mệnh

Tướng Mạo

Cung Mệnh có sao Thái Dương đắc địa, vượng và miếu địa là người có thân hình đẩy đà, cao vừa tầm, da hồng hào, mặt vuông vắn đầy đặn, có vẻ uy nghi (nếu sinh ban đêm thì mặt đỏ), mắt sáng, dáng điệu đường hoàng bệ vệ.

Cung Mệnh có sao Thái Dương hãm địa là người này có thân hình nhỏ nhắn, hơi gầy, cao vừa tầm, da xanh xám, mặt choắt, có vẻ buồn tẻ, má hóp, mắt lộ, thần sắc kém.Thái Dương miếu vượng là người cao vừa tầm, trắng trẻo, rất thông minh, rộng rãi nhưng hơi ganh tài. Đi với Văn Xương hay Song Hao miếu là người thông kim bác cổ, học một biết mười, mặt đẹp dáng người dong dỏng như Thư Sinh. Đi cùng Đà La là người hơi không bình thường, khôn ngoan nhưng thâm hiểm, không phải là dạng thông minh xuất chúng. Hình dáng bên ngoài cũng thấp vừa tầm. Đi cùng Không Kiếp thì mặt hay bị mụn, trí thông minh bình thường. Khi Không Kiếp miếu là người nóng nảy liều lĩnh, dám nghĩ dám làm. Đi với Quang Quý sẽ làm cho tính kiêu của Thái Dương giảm đi rất nhiều, trở nên nhân ái từ hòa hơn. Đi với Hóa Kỵ dễ mắc bệnh về trí óc, hay lo nghĩ. Nhật hãm ngộ Xương Khúc Tam Hóa là người rất thông minh, biết tận dụng thời cơ, anh hùng trong thời loạn. Dáng người dong dỏng cao, trắng trẻo. Nhật hãm không gặp được các sao trên thì là người ngu độn cố chấp bảo thủ. Hình dong thấp mà xấu.

Tính Tình

Đắc địa, vượng địa và miếu địa là người thông minh, tính thẳng thắn, cương trực, hơi nóng nảy nhưng nhân hậu, từ thiện. Đối với phái nữ thì đoan chính, đức hạnh, trung trinh, khí tiết, hiền lương có tác dụng chế giải tính chất lả lơi hoa nguyệt của Đào, Hồng, Riêu, Thai và có giá trị như Tử, Phủ, Quang, Quý, Hình..

Nếu được thêm các sao này hỗ trợ, mức độ ngay thẳng càng nhiều: đó là đàn bà đức hạnh, trung trinh, khí tiết, hiền lương. - hơi nóng nảy, háo quyền, chuyên quyền - nhân hậu, từ thiện, hướng thượng, thích triết, đạo lý

Hai đức tính nổi trội hơn hết là sự thông minh và đoan chính.

Nếu Thái Dương hãm địa: Hãm Địa là người kém thông minh, nhân hậu, từ thiện nhưng tánh ương gàn, khắc nghiệt. Không cương nghị, không bền chí, chóng chán, nhất là ở hai cung Thân, Mùi (mặt trời sắp lặn). Đối với phái nữ thì đa sầu, đa cảm, thích đua chen, ganh tị

Công Danh Tài Lộc

Nếu Thái Dương hãm ở các cung dương (Thân, Tuất, Tý) thì không đến nỗi xấu xa, vẫn được no ấm, chỉ phải không giàu, không hiển đạt. Tuy nhiên, dù hãm địa mà Thái Dương được nhiều trung tinh hội tụ sáng sủa thì cũng được gia tăng tài, quan.

Trường hợp Thái Dương ở Sửu Mùi gặp Tuần, Triệt án ngữ thì người này có phú quý như cách Thái Dương vượng hay miếu địa. Nếu thêm Hóa Kỵ đồng cung thì càng rực rỡ hơn nữa.

Nếu đắc địa thì có uy quyền, địa vị lớn trong xã hội, có khoa bảng cao, hay ít ra rất lịch lãm, biết nhiều, có tài lộc vượng, giàu sang, phú quý. Thái Dương đóng ở cung Quan là tốt nhất đó là biểu tượng của quyền hành, của uy tín, của hậu thuẫn, nhờ ở tài năng.

Nếu hãm địa thì công danh trắc trở, khoa bảng dở dang, bất đắc chí, khó kiếm tiền.

Nếu Thái Dương hãm ở các cung Dương (Thân, Tuất, Tý) thì không đến nổi xấu xa, vẫn được no ấm, chỉ phải không giàu, không hiển đạt.

Tuy nhiên, dù hãm địa mà Thái Dương được nhiều trung tinh hội tụ sáng sủa thì cũng được gia tăng tài, quan. Như vậy, nói chung, Thái Dương hãm địa không đến nổi xấu như các sao hãm địa khác, có lẽ vì bản chất của Thái Dương là nguồn sáng của vạn vật, tuy có bị che lấp nhưng cũng còn cần, không lôi kéo sự suy sụp đổ vỡ, miễn là không bị sát tinh xâm phạm.

Trường hợp đặc biệt là Thái Dương ở Sửu Mùi gặp Tuần, Triệt án ngữ. Đây là cách đẹp của mặt trời hội tụ với mặt trăng được Tuần Triệt gia tăng ánh sáng. Người có cách này có phú quý như cách Thái Dương vượng hay miếu địa. Nếu được thêm Hóa Kỵ đồng cung thì càng rực rỡ hơn nữa.

Phúc Thọ Tai Họa

Tai nạn và bệnh tật xảy ra đối với các trường hợp Thái Dương hãm địa gặp các sao như Kình, Đà, Không, Kiếp, Riêu, Hình, Kỵ bị tật về mắt hay chân tay hay lên máu, gặp tai họa khủng khiếp, yểu tử, hoặc phải bỏ làng tha hương lập nghiệp mới sống lâu được.

Riêng phái nữ còn chịu thêm bất hạnh về gia đạo, như muộn lập gia đình, lấy lẽ, cô đơn, khắc chồng hại con. Lý do là Thái Dương còn biểu tượng cho chồng, cho nên nếu hãm địa và bị sát tinh thì gia đạo trắc trở vì tai họa đó có thể xảy ra cho chồng.

Nói chung, người nữ có Thái Dương sáng thì được hưởng phúc thọ cả cho chồng. Ngược lại, nếu sao này xấu thì cả chồng lẫn đương sự sẽ bị ảnh hưởng. Cái tốt xấu của Thái Dương bao giờ cũng đi đôi: tốt cả đôi, xấu cả cặp.

a. Thái Dương đắc địa trở lên: Chỉ riêng bộ thần kinh bị ảnh hưởng vì ánh sáng mạnh của sao gây căng thẳng tinh thần, biểu lộ qua các trạng thái:

- sự ưu tư, lo âu quá mức - tính nhạy cảm quá mức - sự mất ngủ và các hậu quả - sự tăng áp huyết vì thần kinh

Đi với các sao Hỏa (Hỏa, Linh) hay đóng ở cung hỏa vượng (Thìn, Ngọ), có thể bị loạn thần kinh đi đến loạn trí. Những bệnh trạng này cũng xảy ra nếu Nhật hãm địa bị Tuần Triệt án ngữ.

b. Thái Dương hãm địa: Không bị sát tinh xâm phạm, Thái Dương hãm địa chỉ trí tuệ kém linh mẫn, mắt kém. Nếu bị sát tinh, bệnh trạng sẽ nặng hơn. - Nhật Kình (Đà) Kỵ: đau mắt, tật mắt (cận thị, viễn thị, loạn thị) có thể mù, kém thông minh. - Nếu có thêm Hình, Kiếp Sát: có thể bị mổ mắt

Những Bộ Sao Tốt

Thái Dương gặp các sao Đào Hồng Hỷ (tam minh): Hiển đạt.

Thái Dương gặp các sao Khoa Quyền Lộc (tam hóa): Rất quý hiển, vừa có khoa giáp, vừa giàu có, vừa có quyền tước.

Nhật sáng Xương Khúc: Lịch duyệt, bác học.

Nhật sáng Hóa Kỵ: Làm tốt thêm.

Nhật Cự ở Dần: Giàu sang vinh hiển ba đời.

Nhật (hay Nguyệt) Tam Hóa, Tả Hữu, Hồng, Khôi: Lập được kỳ công trong thời loạn.

Nhật Tứ Linh (không bị sát tinh): Hiển hách trong thời bình.

Những Bộ Sao Xấu

Nhật hãm sát tinh: Trai trộm cướp, gái giang hồ, suốt đời lao khổ, bôn ba, nay đây mai đó.

Nhật Riêu Đà Kỵ (tam ám): Bất hiển công danh.

Nhật hãm gặp Tam Không: Phú quý nhưng không bền.

Thái Dương Khi Vào Các Hạn

Nhật sáng: Hoạnh phát danh vọng, tài lộc.

Nhật mờ: Đau yếu ở ba bộ phận của Thái Dương, hao tài, sức khỏe của cha, chồng suy kém. Nếu gặp thêm Tang, Đà, Kỵ nhất định là cha hay chồng chết.

Nhật Long Trì: Đau mắt.

Nhật Riêu, Đà Kỵ: Đau mắt nặng, ngoài ra còn có thể bị hao tài, mất chức.

Nhật Kình Đà Linh Hỏa: Mọi việc đều trắc trở, sức khỏe của cha, chồng rất kém, đau mắt nặng, tiêu sản.

Nhật Kỵ Hình ở Tý Hợi: Mù, cha chết, đau mắt nặng.

Nhật Cự: Thăng chức.

Nhật Nguyệt Không Kiếp chiếu mà Mệnh có Kình Đà: Mù hai mắt.

Ba đặc tính của Thái Dương tọa mệnh

Cổ nhân có thiên kiến đối với Thá Dương, cho rằng miếu vương thì Cát, lạc hãm thì Hung. Nói "miếu vượng" tức là mặt Trời (Thái dương) ở vào Giờ có ánh sáng mạnh, bắt đầu từ cung Mão đến cung Ngọ, thì mặt Trời ở giữa Trời, đến cung Dậu bắt đầu mặt Trời lặn về Tây, sau đó đến cung Dần mặt Trời bắt đầu lại nhô lên. Do đó lúc luận đoán đương số có Thái Dương thủ mệnh, cần phải xem trọng tính chất của từng cung độ. Nói cách khác, Thái dương thủ mệnh ở cung Hợi, mệnh vận sẽ không thể bằng ở cung Tị. Công thức đoán mệnh này hầu như đã thành mẫu mực.

Vì vậy, đối với người có Thái Dương thủ mệnh, cổ thư có mấy câu bình giải điển hình như sau:

- "Thái dương thủ mệnh lạc hãm, dù Hóa Quyền Hóa Lộc vẫn hung, quan lộc không hiển đạt, thành bại bất nhất"- "Thái dương tủ mệnh, lạc hãm mà thêm hung tinh sát tinh, chủ về người mang tật"- "Thái dương thủ mệnh miếu vượng, phú quý vinh hoa"- "Nữ mệnh Thái Dương ở bốn cung Mão Thìn Tị Ngọ, không có sát tinh, chủ về vượng phu ích tử"

Tóm lại, cổ nhân cho rằng cung Mệnh mà gặp Thái Dương buổi sáng là Cát, gặp Thái Dương buổi chiều là Hung. Công thức đoán mệnh này đánh mất tính cách thông thường của Thái dương, mà còn bỏ xót một điều rằng: Thái dương buổi sáng cũng có khiếm khuyết của nó, Thái dương buổi chiều cũng có uy lực của nó. Vương Đình Chi cho rằng, phái Trung Châu luận về Thái dương khách quan hơn.

Thái dương tọa mệnh thực ra có 3 đặc điểm như sau:

(1)- Một là: hào phóng. Nói "hào phóng", có nghĩa là không tính toán, so đo tiểu tiết. Cho nên người có Thái dương thủ mệnh thường làm cho người khác phải ghi nhớ trong lòng.

(2)- Thứ hai: danh lớn hơn lợi. Trong Đẩu Số, Thái âm chủ về Phú, Thái dương chủ về Quý. Cho nên người có Thái dương tọa mệnh, bất kể sự nghiệp phát triển lớn đến mức nào, cũng chưa chắc là "cự phú", thậm chí có lúc bản thân không giầu có bằng người dưới quyền của họ.

(3)- Thứ ba: tâm cao khí ngạo. Dù là người ở địa vị dưới cũng thường không phục thượng cấp, trừ khi thượng cấp của họ rất có danh vọng, hoặc rất có tài lãnh đạo. Người có Thái Dương thủ mệnh, thường cảm tháy vận khí của mình không được tốt, mà chẳng cảm thấy chính mình có chỗ không bằng người.

Thái Dượng tọa mệnh có ba loại phối hợp

Thái Dương đồng cung với chính diệu khác, chỉ có 3 tình huống. Một là lúc đồng độ với Thái âm ở cung Sửu hoặc cung Mùi; hai là lúc đồng độ với Cự môn ở cung Dần hoặc cung Thân; ba là lúc đồng độ với Thiên lương tại cung Mão hoặc cung Dậu. Ở sáu cung Tý, Thìn, Tị, Ngọ, Tuất, Hợi còn lại, đều là Thái dương đọc tọa.

Nhưng Thái dương độc tọa cũng có 3 tình huống khác nhau. Thái dương độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, nhất định sẽ đối nhau với Thiên lương, Thái dương độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, nhất định sẽ đối nhau với Cự Môn, Thái dương độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, nhất định sẽ đối nhau với Thái âm.

Cho nên, Thái dương có quan hệ với chính diệu, thực ra chỉ có 3 sao Cự môn, Thiên lương, Thái âm, và chia thành hai tình huống: đồng cung và đối cung.

Phái Trung Châu nghiên cứu đặc tính của Thái Dương, rất chú trọng mối quan hệ của Thái dương với Thái âm, Cự môn, Thiên lương, mà không chỉ chăm chú vào tình hình Thái dương ở cung độ sáng hay tối.

Cự môn chủ về "ám", Thái âm chủ về "phú", Thiên lương chủ về "sang quý thanh cao". Ba tính chất cơ bản này sẽ ảnh hưởng đến Thái dương thủ mệnh. Cho nên, về đại thể, Thái dương gặp Cự môn là người chỉ có hư danh, Thái dương gặp Thái âm là người có thể phú quý, cũng có thể chỉ thuộc loại tiểu phú quý, thậm chí chỉ là người ở bậc trung có chút quyền lực, Thái dương gặp Thiên lương là người quá tuân thủ nguyên tắc, thành nhân vật được người trong giới chuyên nghiệp biết đến, nhưng không phải là người trong đại chúng nghe danh.

Đương nhiên, trên chỉ là những đặc tính cơ bản, tình hình cụ thể vẫn phải cần xem xét các sao hội hợp khác mà thay đổi.

Thái Dương thủ mệnh vào hành chính, y khoa hoặc công tác xã hội thì hợp và có thể đạt địa vị cao. Nhưng buôn bán kinh doanh hoặc làm những việc gì cần mưu lợi, thủ đoạn lại thường rất dở. Trong khi Thái Âm dễ vào kinh doanh, không phải vì Thái Âm giảo quyệt nhưng Thái Âm tham hơn

Thái Dương chủ QUÝ cho nên khi đoán Thái Dương thủ mệnh phải căn cứ trên chức vị, danh vọng. Không phải bất phú là nghèo. Có địa vị, tất nhiên địa vị càng cao tiền càng nhiều. Bất phú nghĩa là không tự mình làm nên giàu có thế thôi. Ở trường hợp Thái Dương đóng Tài Bạch cung đắc địa lại khác.

Thái Dương cần nhất đắc địa thì ánh sáng mới quang minh. Thái Dương đóng Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ là mặt trời rực rỡ buổi sáng buổi trưa.Thái Dương đóng Dậu, Tuất Hợi ví như mặt trời buổi đêm đã mất quang huy.

Ngoài đứng đúng chỗ, Thái Dương còn đòi hỏi người mang số Thái Dương phải sinh ban ngày mới là hợp cách, sinh ban đêm giảm đi. Sinh ban ngày dù Thái Dương hãm cũng nửa hung nửa cát, sinh ban đêm Thái Dương hãm tuyệt đối hung.

Thái Dương được cổ nhân gọi bằng “trung thiên chi chủ” (chủ tinh giữa trời), giống sao Tử Vi cần bách quan tề tựu. Tất nhiên không bao giờ có Thiên Phủ Thiên Tướng triều củng.

Cách đẹp là Thái Dương đóng ở Thìn hội chiếu Thái Âm đóng ở Tuất, gọi là Nhật Nguyệt song huy hay Nhật Nguyệt tịnh minh. Thái Dương thuộc Hoả, quang minh chính đại, thông minh sái lệ, tài hoa.

Trong ngũ hành trí tuệ Thuỷ có sự khác biệt nhau. Trong hàng ngũ các sao, sự đa tài của Thái Dương cũng vậy, khác với sự đa tài của Thiên Cơ.

"Trí tuệ của âm Mộc thâm trầm. Trí tuệ của dương Hoả quang minh lộ liễu"

Thái Dương đa tài về mặt biểu hiện làm chính trị, ra đám đông hoặc vào nghệ thuật biểu diễn như nhạc họa, kịch nghệ là hợp cách. Thiên Cơ đa tài với kế hoạch trong bóng tối, làm chính trị ở địa vị nghiên cứu, phân tích tình báo hoặc vào thuật số âm dương viết văn là hợp cách.

Thái Dương thuộc Bính Hoả mãnh liệt, hoá khí là “QUÝ” chứa chất phản kháng tính. Phá Quân cũng phản kháng nhưng thường có khuynh hướng phản nghịch. Khác nhau thế nào? Vì Thái dương bản chất quang minh, thấy điều trái thì chống, nhưng chống đối với nguyên tắc không đi quá đà đến mức phản nghịch. Trong khi Phá Quân cương mãnh làm theo ý mình muốn dễ quá khích đi đến phản nghịch

Thái Dương đóng cung Quan lộc đắc địa ý niệm khai sáng mở lối cao và vững. Một ngành nào đang trên đà xuống dốc vào tay người Thái Dương quan lộc khả dĩ sẽ hưng thịnh trở lại. Thái dương ở Tài bạch dễ có tiền, ưa phô trương tiền bạc qua ăn chơi, chưng diện …

Mệnh Thái Dương có một cách đặc biệt - ấy là Thái Dương thủ Mệnh tại Hợi. Tại Hợi cung Thái Dương là phản bối. Thái Dương mất đi vẻ huy hoàng - tương ý là mặt trời đêm. Thái Dương tại Hợi đi vào một trong hai tình trạng cực đoan: hay cũng vô cùng mà dở cũng vô cùng; rất thuận lợi hoặc rất khốn khó.

Thái Dương đóng Hợi nếu có trợ giúp của xương Khúc, Tả Hữu, Khôi Việt thì tuy thất huy nhưng vẫn được cải thiện nhiều, có một đời sống dễ dãi được. Thái Dương cư Hợi lại hay vô cùng nếu như nó gặp Thiên Mã Hóa Lộc, Lộc Tồn tức cách Lộc Mã giao trì. Cách này bỏ xứ bỏ quê mà đi trồi phấn đấu thành công phú quí.

Thái Dương tại Hợi phú gọi bằng Nhật trầm thủy để (mặt trời chìm sâu đáy nước) có Lộc Mã giao trìlại thêm cả Binh hình Tướng Ấn thì ăn to vào thời loạn. Chư tinh vấn đáp viết: “Thái Dương được các cát tinh khác thủ hay chiếu, rồi lại có Thái Âm đồng chiếu giàu sang đủ cả…Nếu Thân cung Thái Dương đắc địa mà gặp nhiều cát tinh khả dĩ làm môn hạ khách chốn công hầu, hoặc làm dân chạy cờ cho bậc công khanh.

Thái Dương vào Mệnh với vào Thân cung rõ ràng tạo ảnh hưởng khác biệt hẳn. Một đằng tự mình gầy dựng phú quí, một đằng chỉ làm môn hạ khách ở nơi cửa quyền. Trừ trường hợp Mệnh cung tự nó có cách tốt riêng. Trường hợp Thân cư phối thì số gái lấy chồng sang, số trai được vợ giàu sang hoặc gia đình vợ thế lực nâng đỡ, nhờ vã nhà vợ mà lên to.

Thái Dương ưa Xương Khúc và sợ Hóa Kị. Có lý luận cho rằng nếu Thái Dương đắc địa gặp Hóa Kị càng tốt. Hóa Kị như đám mây ngũ sắc khiến Thái Dương thêm rực rỡ. Không phải vậy, Thái Âm gặp Hóa Kị đắc địa, Hóa Kị khả dĩ biến thành đám mây ngũ sắc, còn với Thái Dương thì không. Hóa Kị là đám mây đen, là ám tinh trong khi tính chất căn bản của Thái Dương là quang minh, quang với ám chẳng thể hợp cùng. Nhất là Mệnh nữ Thái Dương mà có Hóa Kị tất nhiên hôn nhân gẫy vỡ, lúc nhỏ mồ côi cha hoặc xa cách, hoặc thiếu vì Thái Dương Hóa Kị như thế bất lợi hoàn toàn với những người thân thuộc nam tính. Ngoài ra còn có thể bị xảy thai, trụy thai.

Thái Dương hãm hội Riêu Kị, Thiên Hình hoặc Kình Đà khó tránh khỏi bệnh tật ở đôi mắt.

"Kình Đà Riêu Kị phá xung Lại là đôi mắt chẳng mong được cùng Kình Đà Riêu Kị khá kinh Ắt rằng mắt chịu tật hình không ngoa"

Gặp Riêu Kị rồi Kình Đà hay Hỏa Linh thì cũng thế.

Thái Dương thủ Mệnh còn cách cục trọng yếu khác: Nhật chiếu lôi môn, tức thái dương đóng tại Mão. Mão thuộc cung chấn, Chấn vi lôi (sấm sét). Khi đóng Mão đương nhiên Thái Dương đứng cùng Thiên Lương. Cách Nhật chiếu lôi môn tuyệt đối tốt nếu hội cùng Thái Âm Hợi với Hóa Lộc, thêm Văn Xương Văn Khúc càng đẹp lắm, nhất là đối với chuyện thi cử khoa bảng. Như phú viết:”Dương Lương Xương Lộc, lô truyền đệ nhất danh” (Dương Lương Xương Lộc loa gọi người đỗ đầu)

Hiện đại cách Dương Lương Xương Lộc có thể là nhà phát minh, người làm những cuộc nghiên cứu nổi danh, một tay thể thao tăm tiếng…Cách Dương Lương Xương Lộc phải là Thái Âm đi với Hóa Lộc chiếu qua mới hợp cách. Nếu hóa Lộc đứng ngay bên cạnh Thiên Lương thì lại kém hẳn. Tại sao? Vì quan hệ Thiên Lương với Hóa Lộc không ổn thỏa (sẽ bàn khi luận về Thiên Lương)

Về cách Thái Dương cặp với Cự Môn tức “Cự Nhật đồng lâm”, hãy xếp qua phía Cự Môn. Ngoài ra còn những cách: Nhật Nguyệt đồng cung Sửu Mùi, Nhật Nguyệt chiếu bích, Nhật Nguyệt tịnh minh.

Nhật Nguyệt tịnh minh gồm có Dương tại Thìn, Âm tại Tuất hoặc Dương tại Tị, Âm tại Dậu. Cách Nhật Nguyệt tịnh minh cũng như các cách khác cần Tả Hữu, Xương Khúc, Khoa Quyền Lộc, học đỗ cao, địa vị xã hội vững, kém hơn nếu bớt đi những phụ tinh, tuy nhiên không kể làm cách đặc biệt.

Về Nhật Nguyệt đồng cung Sửu Mùi, nếu Mệnh VCD Nhật Nguyệt Mùi hoặc Sửu thì chiếu đẹp hơn là thủ Mệnh. Căn cứ vào câu phú:”Nhật Nguyệt thủ bất như chiếu”

Phú đưa ra những câu: "Nhật Nguyệt đồng Mùi, Mệnh an Sửu hầu bá chi tài Nhật Nguyệt Mệnh Thân cư Sửu Mùi, tam phương vô cát phản vi hung"Cách trên là cách Nhật Nguyệt chiếu, cách dưới là cách Nhật Nguyệt đồng thủ Mệnh. "Mấy người bất hiển công danh Bởi chưng Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi"“Nhật Mão, Nguyệt Hợi Mệnh Mùi cung, đa triết quế” nghĩa là Mệnh lập tại Mùi không chính tinh, Hợi Nguyệt chiếu lên, Nhật Mão chiếu qua học hành đỗ đạt cao, lấy vợ giàu sang.

Trường hợp Thái Dương đắc địa gặp Hóa Kị thế nào? Tỉ dụ Thái Dương tại Tỵ thì Cự Môn đương nhiên tại Hợi, nếu có Hóa Kị hợp với Cự Môn hẳn nhiên xấu, tranh đấu cho sự thành đạt khó khăn vất vả hơn gấp bội. Thái Dương đắc địa bị Hóa Kị dễ chiêu oán, nếu đi vào ngành thầy kiện, thầy cò, cảnh sát làm chức nghiệp sinh sống hợp hơn ngành khác.

Thái Dương là Mặt Trời là nguồn sống của vạn vật. Có thể nói mọi sinh vật trên quả đất này đều được hưởng ân huệ của Thái Dương, Thái Dương ban phát ân huệ một cách vô tư, không tính toán, không hề đòi lại, chỉ có cho mà không có nhận.

Trong khoa Tử Vi, căn cứ vào vị trí Mặt Trời, Mặt Trăng mà chúng ta có địa bàn 12 cung dùng để xem Tử Vi. Thái Dương chính là Mặt Trời là điểm khởi đầu cho tất cả. Các bạn có thể đọc trong Tử Vi Hoàn Toàn Khoa Học của Tiến Sỹ Đằng Sơn để hiểu thêm rằng khoa Tử Vi thật ra khởi đầu bằng hai sao Âm Dương chứ không phải Tử Phủ.

Thái Dương là dương hỏa tượng trưng cho ánh sáng của lý trí, của sự thông minh kiêu hãnh. Đã là nguồn gốc của vạn vật, ai cũng được hưởng ân huệ của Thái Dương cho nên bất cứ tuổi nào mệnh nào cũng được hưởng ít nhiều từ sao Thái Dương, được hưởng nhiều nhất là người mệnh Hỏa, thứ nhì là mệnh Thổ, các mệnh Kim Thủy Mộc hưởng như nhau.

Sao Thái Dương trong Tử Vi tượng trưng cho Bố, con mắt bên phải, cho lý trí cho sự thông minh, sự khoan hòa độ lượng, cũng như sự nóng nảy và ganh tỵ. Dù đóng bất cứ tại cung nào, Thái Dương cũng ảnh hưởng mạnh đến cuộc đời của đương số.

Thái Dương là nguồn sáng thiên nhiên vô tận, lúc nào cũng vươn lên cao hơn đẹp hơn. Khi gặp Tuần, Triệt cũng chỉ làm ban đầu trắc trở thôi, chứ bảo Tuần Triệt làm cho Thái Dương miếu vượng trở nên u ám đen tối là sai. Thái Dương miếu vượng chính là sự vươn lên đấu tranh không mệt mỏi, Tuần Triệt chỉ có thể gây khó khăn ban đầu mà thôi, cuối cùng Thái Dương cũng vẫn vươn lên tỏa sáng. Thái Dương hãm ngộ Tuần Triệt sáng ra cũng không đúng, trường hợp này Tuần Triệt cũng chỉ là kềm chế hãm lại những cái xấu của Thái Dương hãm địa mà thôi. Cho nên ta chỉ nên nói: Thái Dương miếu vượng ngộ Tuần Triệt thì ban đầu khó khăn, về sau vẫn thành công, Nhật miếu vượng vẫn là miếu vượng. Nhật hãm ngộ Tuần Triệt thì những cái xấu bị chế giảm bớt cho nên ta thấy may mắn hơn dễ chịu hơn nhưng Nhật hãm vẫn là hãm, Tuần Triệt không thể làm mất hết cái hãm kia đi được.

Thái Dương miếu vượng hóa khí là Quyền và Lộc ngoài ra còn là biểu tượng của Trí Tuệ Thông Thái, cho nên đóng vào cung Mệnh hay Quan Lộc là hợp nhất, đóng cung Thiên Di là số xuất ngoại làm giàu, đóng cung Tài bạch, Điền Trạch đem lại tiền tài của cải nhiều. Đóng cung Phúc Đức là người được hưởng phúc ấm của tổ tiên. Đóng cung Phu Thê là số có được vợ chồng giàu có, trường hợp Nữ cung Phu có Thái Dương tối quý. Nói chung Nhật miếu vượng đóng cung nào giáng phúc cho cung đó.

Thái Dương không bao giờ Hóa Khoa, cho nên Nhật còn tượng trưng cho tính cực đoan, ganh tỵ. Nhật miều vượng thủ mệnh là người ngoài mặt rất hòa đồng nhưng trong lòng bao giời cũng muốn hơn người, thấy người khác giỏi hơn thì không vui. Tuy nhiên, do bản chất là rộng lượng cho nên người có Nhật miếu vượng thủ mệnh nếu thấy người khác hơn mình thì bản thân tự phấn đấu rèn luyện để hơn người ta , chứ không âm mưu hãm hại , không ganh ghét tài năng. Thái Dương hãm, dù đóng bất cứ nơi nào cũng phải luận đoán là tuổi trẻ buồn nhiều hơn vui, về hậu vận mới thong dong. Trong trường hợp này nếu gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền sẽ là phản vi kỳ cách, gặp Tuần Triệt thì những cái xấu sẽ giảm đi. Tuy nhiên dù có phản vi kỳ cách hay gặp Tuần Triệt cũng là "Tiền bần hậu phú", phải phấn đấu nỗ lực nhiều mới thành công.

Thái Dương là Mặt Trời là nguồn sống của vạn vật. Có thể nói mọi sinh vật trên quả đất này đều được hưởng ân huệ của Thái Dương, Thái Dương ban phát ân huệ một cách vô tư, không tính toán, không hề đòi lại, chỉ có cho mà không có nhận.

Trong khoa Tử Vi, căn cứ vào vị trí Mặt Trời, Mặt Trăng mà chúng ta có địa bàn 12 cung dùng để xem Tử Vi. Thái Dương chính là Mặt Trời là điểm khởi đầu cho tất cả. Các bạn có thể đọc trong Tử Vi Hoàn Toàn Khoa Học của Tiến Sỹ Đằng Sơn để hiểu thêm rằng khoa Tử Vi thật ra khởi đầu bằng hai sao Âm Dương chứ không phải Tử Phủ.

Thái Dương là dương hỏa tượng trưng cho ánh sáng của lý trí, của sự thông minh kiêu hãnh. Đã là nguồn gốc của vạn vật, ai cũng được hưởng ân huệ của Thái Dương cho nên bất cứ tuổi nào mệnh nào cũng được hưởng ít nhiều từ sao Thái Dương, được hưởng nhiều nhất là người mệnh Hỏa, thứ nhì là mệnh Thổ, các mệnh Kim Thủy Mộc hưởng như nhau.


------------------------------

------------------------------
Đã đọc : 3474 lần

Liên hệ tư vấn

hỗ trợ trực tuyến

CHÚ Ý: AVS KHÔNG TƯ VẤN QUA CHAT

tư vấn qua điện thoại (3.000 đồng/phút): 1900 68 50 hoặc (04)1088 - 1 - 7

tư vấn trực tiếp: 2/15, phố Đào Duy Từ, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội

Lĩnh vực tư vấn:

- tư vấn tâm lý tình cảm, hôn nhân, gia đình

- tư vấn nuôi dạy trẻ

- tư vấn sức khỏe tình dục: xuất tinh sớm, lãnh cảm, nghệ thuật phòng the, bệnh tình dục....

- tư vấn sức khỏe sinh sản, giới tính

- tư vấn trị liệu tâm lý

- Các vấn đề tâm lý khác như ly hôn, stress

Gọi -1900 68 50 để đặt lich tư vấn trực tiếp

Biểu giá tư vấn tại đây

Khách hàng tư vấn trực tuyến xem hướng dẫn tư vấn tại đây