Lục sát tinh: Sao Đà La

Hành: Kim

Loại: Sát Tinh

Tên gọi tắt thường gặp: Đà

Phụ tinh. Thuộc bộ sao đôi Kình Dương và Đà La. Gọi tắt là bộ Kình Đà.

- Phân loại theo tính chất là Kỵ Tinh, Hung Tinh.

- Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Sát Tinh gồm các sao Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Linh Tinh, Hỏa Tinh (gọi tắt là Kình Đà Không Kiếp Linh Hỏa).

- Nếu sao Đà La tọa thủ trong cung Vô Chính Diệu (như trường hợp Cung Mệnh Vô Chính Diệu và Cung Phụ Mẫu Vô Chính Diệu của lá số mẫu) được gọi là cách Hung Tinh độc thủ hoặc Đà La độc thủ.

Vị Trí Ở Các Cung

Đắc Địa: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.

Hãm Địa: Tý, Dần, Mão, Tỵ, Ngọ, Thân, Dậu, Hợi.

Tướng Mạo

Cung Mệnh có sao Đà La, thì có thân hình cao dài, hơi gầy, da xám, lông tóc rậm rạp, mặt thô, răng xấu, mắt kém, chân tay dài, trong mình thường có tỳ vết và thẹo.

Tính Tình

Đà La đắc địa: Can đảm, dũng mãnh, thăng trầm, có cơ mưu thủ đoạn, gian hiểm.

Đà La hãm địa: Hung bạo, gian hiểm, độc ác, dâm dật.

Những Bộ Sao Tốt

Đà La gặp Lực, Quyền ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi là người có quyền hành, được nhiều người kính phục.

Những Bộ Sao Xấu

Đà La gặp Thiên Hình, Địa Không, Địa Kiếp, Thất Sát, Hóa Kỵ: Đạo tặc, gian phi, giết người, cướp của.

Đà La, Thiên Riêu, Hóa Kỵ ở liền cung thì bị họa vô đơn chí.

Đà La gặp Hỏa, Linh, Không, Kiếp, Kỵ, Hình là người có số ăn mày, yểu, gian phi, vào tù ra khám.

Đà La Khi Vào Các Hạn

Đà La, Thiên Hình hay Đà La ở Thìn, Tuất: Có ngục hình.

Đà La, Không, Kiếp: Tổn tài, bệnh tật, bị lừa gạt.

Đà La, Thái Tuế, Hóa Kỵ: Bị tai tiếng, kiện tụng, cãi vã.

Đà La, Thiên Mã: Thay đổi, bôn ba, quân nhân thì phải đánh Nam dẹp Bắc, chinh chiến lâu ngày.

Đà La, Lưu Đà: Tai họa khủng khiếp, nhất là khi gặp thêm Thất Sát đồng cung.

Đà La hoá khí là “Kỵ”. Kỵ từ Đà La biểu hiện ngăn trở trì trệ, có thể tạo nên những khó khăn bất ngờ, có thể khiến cho đương sự vào mê hồn trận. Ngăn trở trì trệ của Đà La thường ngấm ngầm quỷ quyệt. Đà La phá hãm ví như ngụy quân tử. Nhưng nếu Đà La hội với Hỏa Tinh lại thành ra thứ trở ngại không vượt được rồi thất bại. Hung họa đến từ Kình Đà xem như thế còn tùy thuộc vị trí chúng đứng và hội tụ với sao nào để mà tìm ra đầy đủ ý nghĩa. Đà La ngược lại, làm việc âm thầm, gan góc, tiến chậm nhưng không ngừng tiến, không vội vã nhưng không phải không có phản ứng mau. Thường nuốt để bụng và cực kỳ cố chấp, khả năng nhẫn nại cao

Đà La thủ Mệnh biểu hiện qua đôi mắt lớn, lồi, đắc địa ánh mắt từ tường, hãm ánh mắt mờ đục, răng dễ bị hư nếu vào hãm địa. Đà La đắc địa ở các cung mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) làm việc giỏi dắn, dám làm và thành công.

Đà La hãm nơi Dần Thân Tỵ Hợi tính giảo quyệt ưa phá hoại, cô đơn. Đà đắc địa tứ mộ can đảm thâm trầm, lắm mưu mô thủ đoạn.

Đà la gặp Riêu Cái Tuế ở Mệnh có tật nói ngọng, nóilắp. Đà hãm gặp Linh hỏa Không Kiếp Kỵ Hình, đau yếu tật nguyền dễ lâm vào cùng khốn.

Đà La Kình Dương hội Thất Sát thường gặp tai hoạ lớn. Đà gặp Thiên hình ở vận hạn đưa đến kiện tụng, ẩu đả. Đà gặp Hỏa ở vận hạn đau ốm. Đà gặp Thiên Mã tại Mệnh rất không ngoan nhưng cũng rất mưu mô.

Đà La Sửu Mùi tốt nhất, thứ đến Mùi, Thìn vượng địa, Tuất bình hòa. Đà La hội với Tham Lang dễ biến thành con người ham mê chơi bời rượu chè.

Đà La gặp Hỏa Tinh hay bị thương tật hoặc bệnh lâu không khỏi. Đà La Mệnh, Kình Dương Thân thì hình khắc dữ dội hơn nữa

Đà La vào Tật ách có bệnh phổi, xuất huyết ở phổi, mặt có sẹo, tê thấp, bệnh ngứa làm lột da. Kình Đà vào cung Tật ách của số nữ phải để phòng bệnh bướu tử cung đưa đến giải phẩu

Đà La đứng bên Tham Lang khi Tham Lang ở cách ‘phiếm thủy đào hoa” tức Tham Lang đóng Hợi có thể đưa đến tình trạng “mê hoa luyến tửu dĩ vong nhân” chết vì trác táng do nghèo hay bệnh.

Đà La đứng với Tham Lang ở Dần cách gọi bằng “phong lưu thái trượng” lại là con người hào hoa phong nhã dễ bị lừa gạt bởi đam mê, không trác táng. Cách “phiếm thủy đào hoa” với “phong lưu thái trượng” khác nhau như vậy.

Kình Đà có một cách nhất định gây họa hại, ấy là khi Lộc Tồn đứng với hóa Kị, đương nhiên Kình Đà hiệp Mệnh, cổ nhân gọi bằng cách Kình Đà hiệp Kị. Cách này đưa đến cái họa bần bệnh giao gia (vì bệnh tật mà nghèo túng, đã nghèo túng còn bệnh tật). Sao Lộc Tồn đứng với Hóa Kị như thế thật xấu.

Kình Đà cũng không hợp với Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, Cự Môn, Vũ Khúc, nhưng Kình Đà mà hiệp sao Thiên Tướng hạm thì họa hại mạnh hơn hết. Cách Tham Hỏa là cách tốt nhưng có Đà Kình vào hỏng đi.

Đà La đứng với sao Thái Âm tại Mệnh, số nữ tính dục cực vượng thịnh đến mức loại dâm bất kể Thái Âm đắc địa hay hãm địa. Trường hợp hãm thì loạn kèm theo tiện, trường hợp đắc sang trọng phong lưu

Đà La tượng trưng bộ sinh thực khí của đàn bà. Từ thuyết này mà Thái Âm Đà La mới loạn dâm, ý chí sức mạnh tình dục lên đến cực điểm.

Đà La độc thủ với nam mạng đắc địa sự thành công thường không qua chánh đạo mà hễ đã bại thì xuống đến tận cùng, cơ sự nghiệp mất, thanh danh cũng tiêu luôn. Trong khi Kình Dương độc thủ có bại vẫn giữ được danh thơm.

Số nữ Đà La độc thủ đắc địa có thể thành công to, nhưng tình duyên dang dở, bất mãn và luôn luôn là con người cô đơn vì quá giảo quyệt nên bị xa lánh. Đà La độc thủ chỉ tốt khi đứng cung Thìn Tuất Sửu Mùi, độc thủ Dần Thân Tỵ Hợi kể như xấu.

- Dương Đà Hỏa Linh phùng cát phát, hung tắc kị

(Dương Đà Hỏa Linh với cát tinh phấn phát thêm hung tinh rất xấu)

- Kình Dương đối thủ tại Dậu cung, tuế điệt Dương Đà Canh mệnh hung

(Kình Dương đóng Thiên Di, gặp hạn lưu Kình Đà người tuổi Canh nguy biến)

- Dương Đà hiệp Kị vi bại cục

(Kình Dương Đà La hiệp Hóa Kị là cách thất bại)

- Dương Đà Quan Phủ ư hãm địa loạn thuyết chi nhân

(Mệnh có Kình Đà hãm địa đứng bên Quan Phủ ưa nói bậy, nói quá kỳ thực, nói lung tung)

- Thân nội Tuế phùng Đà Kị mạc đạo phồn hoa

(cung Thân có Thái Tuế đi với Đà La Hóa Kị là người thô lỗ quê mùa)

- Tật Ách kiêu Đà Nhẫn phản mục tật sầu

(cung Tật Ách bị Kình Đà dễ đau mắt)

- Đà La lâm phụ vi, bất tu Quả Tú diệc tăng bi

(Phu cung xuất hiện sao Đà hãm không cần Quả Tú cũng thành chia xa)

- Mệnh Dương Đà gia Kiếp thọ giảm

(Mệnh Kình Đà thêm Địa Kiếp không thọ hung)

- Riêu Đà Kị kế giao họa vô đơn chí

(Mệnh hội tụ Diêu, Đà, Kị lận đận tai ương hoài)

- Đà La hội Nhật Nguyệt Kị tinh nam nữ đa khắc, hữu mục tật

(Đà La đứng với Hóa Kị và Nhật Nguyệt khắc vợ khắc chồng, bị tật nơi mắt)

- Đà La hãm hội Cự Môn Thất Sát hình khắc lục thân

(Đà La đóng hãm cung gặp Cự Môn Thất Sát khó gần người thân)

- Kình Đà Linh Hỏa phùng cát phát tài, hung tắc kị

(Kình Đà Linh Hỏa đắc địa, gặp sao tốt thì phát bị hung lại kém hay)

Đà La là Sát Tinh mang hành Kim đới Hỏa, chủ sát phạt, trở ngại, tai ương.

Đà La chính là phần Âm của Dương Nhận. Kình Đà là biểu hiện hai mặt Âm Dương của Dương Nhận.

Đà La miếu tại Thìn Tuất Sửu Mùi, bình hòa tại Tỵ, Ngọ, hãm tại Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Tại hai cung Dần Thân có người cho là bình hòa, có người cho là hãm địa.

Do bản chất là phần Âm của Dương Nhận, nên Đà La có nhiều điểm khác biệt hẳn so với Kình Dương (vốn là phần Dương). Người có Kình thủ Mệnh là người kiêu ngạo, quyền biến nhưng bất khuất, không bao giờ chịu cúi đầu, không bao giờ biết nịnh hót, khi bị hãm địa sẽ trở thành hung hãn, bạo lực, rất hiếu chiến; trong khi đó Mệnh có Đà La lại hoàn toàn khác hẳn. Người có Đà La thủ Mệnh là người mưu mẹo, quyền biến, và rất nhẫn nại mềm dẻo khi gặp hoàn cảnh éo le. Đà La nhập miếu gặp các sao chủ về lý luận, pháp luật như Cự Môn, Thái Tuế, Quan Phù thì ăn nói nhẹ nhàng nhưng rất đanh thép, có sức thu hút với người nghe. Khi Đà hãm địa tính chất xấu xa cũng khác hẳn Kình Dương; Đà hãm địa là người thâm hiểm, mưu kế thâm độc nhưng ít ưa thích bạo lực.

Đà La ở Thìn Tuất rất cần thêm Khoa, Quyền, Lộc và các Cát Tinh sáng sủa hội hợp chiếu về. Người có cách này tất dùng miệng lưỡi mà thu phục được thiên hạ ( như Tô Tần, Trương Nghi), nếu gặp thêm Hóa Kỵ lại thành hỏng, dù miệng lưỡi có tài giỏi khiến mọi người nghe theo nhưng cuối cùng thế nào cái miệng cũng hại cái thân. Đặc biệt trường hợp này Đà La tối kỵ gặp thêm Thiên Hình, người bị phạm phải cách này tất bị tù tội, tai tiếng.

Đà La hóa khí là Kỵ Tinh chủ u ám, cho nên dù miếu hay hãm Đà La cũng tối kỵ cho bộ Nhật Nguyệt, nó làm cho bộ Nhật Nguyệt trở thành u ám. Ở đây xin được nói thêm: Hóa Kỵ cũng là một trong Tam Ám, nhưng cái "Ám" của Kỵ còn hóa đi được, nếu Hóa Kỵ đắc địa thì lại là "Mây Ngũ Sắc" chầu Nhật Nguyệt; còn cái "Ám" của Đà La thì không hóa đi được mà cứ ì ra, ngay cả khi nhập miếu tại Mộ cung, hóa khí của Đà La vẫn là u ám. Ngoài ra, Nhật Nguyệt hãm gặp Tuần Triệt thì sáng ra, nhưng gặp Đà La lại càng chết thêm, rất xấu. Cho nên dù ở bất cứ vị trí nào, Nhật Nguyệt cũng cần tránh xa Đà La.

Đà La đắc địa cũng không nên gặp thêm Linh Hỏa ( hay bị lôi thôi kiện tụng) Không Kiếp, Kiếp Sát (ra ngoài dễ nguy hiểm đến tính mạng). Qua đó thấy rõ sự khác biệt rõ rệt của Kình và Đà: Kình miếu địa rất hợp khi đi với các Võ Tinh ( Thất Sát, Linh Hỏa, Phá Quân,...) trong khi Đà La lại hợp với các Sao thiên về Văn, Lý Luận ( Thái Tuế, Quan Phù,...), rất kỵ đi cùng các Võ Tinh, sẽ chẳng đem lại lợi lộc gì mà chỉ có họa.

Với Đà La có một cách rất đặc biệt mà chỉ mình nó có đó là :" Đà La độc thủ", đó là cách cung Vô Chính Diệu có Đà La đóng ở đấy. Đà La độc thủ tại Thìn Tuất Sửu Mùi nếu hội hợp được Khoa, Quyền, Lộc, các sao chủ Lý Luận, các Cát Tinh, tránh xa các Sát Tinh và đặc biệt là không được có Tuần Triệt. Người có cách này đóng tại cung Mệnh là người mưu lược, quyền biến, có thể dựng cơ nghiệp lớn hùng cứ hẳn một phương; hoặc không cũng là nhà ngoại giao đại tài uốn ba tấc lưỡi làm ngả nghiêng được thiên hạ. Đóng tại cung Phúc Đức tất được hưởng Phúc lớn, cuộc đời có lúc hoạnh phát. Đóng tại cung Tài Bạch tất giàu có lớn, kiếm tiền dễ dàng ngay trong thời loạn lạc, tuy nhiên trường hợp này tiền vào nhiều mà ra cũng nhiều, rất cần thêm sao Đẩu Quân, hoặc bộ Cô Quả để hạn chế sự hao tán lại. Các trường hợp đóng tại các cung khác không phải tại Mệnh, Phúc, Tài thì không kể là cách Đà La độc thủ. Đà La độc thủ tại Tỵ Hợi cũng tốt nhưng không tốt như ở Thìn Tuất Sửu Mùi, cuộc đời cần nỗ lực rất nhiều hậu vận mới sung túc được. Đà La độc thủ tại Tý Ngọ Mão Dậu lại hoàn toàn trái lại, đây là mẫu người đại gian đại ác, không từ thủ đoạn để đạt được mục đích. Đà La độc thủ tại Dần Thân có người cho rằng như ở Tỵ Hợi, có người cho rằng như ở Tý Ngọ Mão Dậu.

Qua đó có thể kết luận vài điều về sao Đà La:

1. Đà La và Kình Dương chính là hai mặt Âm Dương của Dương Nhận. Xuất phát từ cách an Kình Đà có thể thấy: không một tuổi nào lại có cả Kình Đà đắc địa (được Kình thì mất Đà và ngược lại).

2. Đà La hoàn toàn khác hẳn Kình Dương. Một cái là Dương cứng rắn , kiêu ngạo, rất hợp đi với các Võ Tinh. Một cái là Âm mềm mỏng, nhẫn nhịn, rất hợp đi với các sao Văn Tinh chủ Lý Luận, Pháp Luật.

3. Đà La tối kỵ cho Nhật Nguyệt dù bất cứ vị đắc hãm nào. Đà La hóa khí là Kỵ Tinh chủ u ám, bế tắc.

4.Đà La có một điểm rất khác so với các Hung Tinh khác ở chỗ: Đà La phát huy thật sự hết tác dụng của nó chỉ khi nó đứng một mình đó chính là cách Đà La độc thủ, trong khi các Hung Tinh khác rất cần người chỉ huy mới phát huy hết tác dụng được ( Không Kiếp hợp nhất với chỉ huy Thiên Tướng, Linh Hỏa hợp nhất với chỉ huy Tham Lang, Kình Dương hợp nhất với chỉ huy Thất Sát, Phá Quân).

Đà La đắc địa tại : Dần, Thân, Tị, Hợi, ở cung Mạng Vô Chính Diệu, Không có Tuần Triệt là Đà La độc thủ, rất anh hùng. Tức là cho đương số phát mạnh, phát lớn, phần nhiều về võ nghiệp. Nhưng phải là người Kim Mệnh hay Thủy Mệnh thì mới ăn; chứ người Hỏa thì lại không được.

Trong trường hợp trên, Đà La độc thủ đã trở thành chính tinh, rực rỡ, cho nên phải không có Tuần Triệt tại đó mới được, có Tuần Triệt lại hỏng mất cách hay.

TRƯỜNG HỢP XẤU CỦA ĐÀ LA

Đà La ở hai cung Thìn, Tuất đóng vai trò La Võng chi địa.

Không phải cứ hai cung Thìn, Tuất là Thiên La, Địa Võng, tức là lưỡi trời ràng buộc các đương số, phải có Đà La đóng đó mà Đà La là lưới trời, thì hai cung đó mới là hai cung lưới trời trói buộc. Do đấy đừng thấy Mạng đóng tại Thìn Tuất mà bảo rằng Mạng bị ràng buộc. Mạng tại Thìn Tuất, mà có Đà La thì mới bị ràng buộc (phải Đà La ngay cung Mạng, chứ Đa La chiếu sang Mạng cũng không sao)

Đà La là lưới tại Thìn, Tuất thì các sao khỏe ở đấy như như Tử-Tướng, Phá Quân bị trói lại, không thi thố được nữa. Những sao yếu, hiền lại không bị Đà La trói buộc.

Cũng như Kình đóng vai trò của Thiên Hình, Đà đóng vai trò của Hóa Kị.

Đà La thủ Mệnh biểu hiện qua đôi mắt lớn, lồi, đắc địa ánh mắt từ tường, hãm ánh mắt mờ đục; răng dễ bị hư nếu vào hãm địa. Đà La đắc địa ở các cung mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) làm việc giỏi dắn, dám làm và thành công.

Đà La hãm nơi Dần Thân Tỵ Hợi tính giảo quyệt ưa phá hoại, cô đơn. Đà đắc địa tứ mộ can đảm thâm trầm, lắm mưu mô thủ đoạn.

Đà La gặp Riêu Cái Tuế ở Mệnh có tật nói ngọng, nói lắp. Đà hãm gặp Linh Hỏa Không Kiếp Kỵ Hình, đau yếu tật nguyền, dễ lâm vào cùng khốn.

Đà La Sửu tốt nhất, thứ đến Mùi, Thìn vượng địa, Tuất bình hòa. Đà La hội với Tham Lang dễ biến thành con người ham mê chơi bời rượu chè.

Đà La gặp Hỏa Tinh hay bị thương tật hoặc bệnh lâu không khỏi.

Đà La vào Tật ách có bệnh phổi, xuất huyết ở phổi, mặt có sẹo, tê thấp, bệnh ngứa làm lột da.

Đà La đứng bên Tham Lang khi Tham Lang ở cách ‘phiếm thủy đào hoa” tức Tham Lang đóng Hợi có thể đưa đến tình trạng “mê hoa luyến tửu dĩ vong thân” chết vì trác táng.

Đà La đứng với Tham Lang ở Dần cách gọi bằng “phong lưu thái trượng”, lại là con người hào hoa phong nhã dễ bị lừa gạt bởi đam mê, không trác táng. Cách “phiếm thủy đào hoa” với “phong lưu thái trượng” khác nhau như vậy.

Đà La đứng với sao Thái Âm tại Mệnh, số nữ tính dục cực vượng thịnh đến mức loại dâm bất kể Thái Âm đắc địa hay hãm địa. Trường hợp hãm thì loạn kèm theo tiện, trường hợp đắc, sang trọng phong lưu

Số nữ Đà La độc thủ đắc địa có thể thành công to, nhưng tình duyên dang dở, bất mãn và luôn luôn là con người cô đơn vì quá giảo quyệt nên bị xa lánh. Đà La độc thủ chỉ tốt khi đứng cung Thìn Tuất Sửu Mùi, độc thủ Dần Thân Tỵ Hợi kể như xấu.

Đà La còn có tên là “mã tảo sát”, thuộc kim, Bắc Đẩu phù sao, hóa khí là Kỵ.

Đà La là một trong tứ sát, cũng là một hung tinh. Tại Dần Thân Tỵ Hợi lạc hãm, Thìn Tuất Sửu Mùi nhập miếu. Thủ thân mệnh, hành động suy nghĩ bất chính, lắm khi nước mắt rơi trong thầm lặng, tính cương uy mãnh, hành sự không dứt khoát, có đầu không có đuôi, hoạnh thành hoạnh phá, phiêu đãng bất định, không là dân bản xứ. Đà La nhập mệnh, thân hình cường tráng, mặt vuông tròn, hai gò má khá cao, nhập miếu đa phần béo, lạc hãm thì mặt có vết thương, răng yếu. Tính tình giảo hoạt, giỏi tính toán, đa nghi.

Người có Đà la nhập mệnh, đa phần tâm thuật bất chính, bôn ba khắp nơi. Thích giở trò xảo trá, có tâm ý phản kháng, lời lẽ khoa trương, có thói quen dọa gạt người khác. Nữ mệnh Đà La, nội tâm tàn nhẫn vẻ ngoài giả dối, xúc phạm chồng khắc con, không thủ đạo làm vợ, cũng không có liêm sỉ.

1. Đà La hỉ người xinh phía Tây, bắc, người sinh năm Thìn Tuất Sửu Mùi, người có mệnh thân ở Thìn Tuất Sửu Mùi, theo nghiệp võ có thể hoạnh phát lớn, theo nghiệp văn thì phát không bền.

2. Nếu người VCD mà Đà La độc thủ mệnh, duyên với cha mẹ bạc, đơn độc, xa quê đi xa, ở rể hoặc nhận con thừa tự, mang 2 họ, sống nhờ xảo nghệ.

3. Đà La thủ mệnh, hội Tả Phụ, Hữu bật, Văn Xương, Văn Khúc, chủ người có nốt ruồi kín.

4. Đà La hãm thủ mệnh, hội Cự Môn hoặc tứ sát, tất hình thương vợ, quay lưng với lục thân, cũng thương tật có bệnh.

5. Đà La tại Dần Thân Tỵ Hợi thủ mệnh thân, tất là người phá tướng, cơ thể có thương tật, nếu không phải số chết yểu thì tất hình thương nặng, nếu rời xa quê hương thì tai họa giảm nhẹ đi, đa phần chủ dung mạo xấu xí.

6. Đà La và Tham Lang đồng cung, là người thích đầu cơ, tất vì tửu sắc mà mắc lao, nếu đồng cung với Tham Lang ở Dần, chủ người thông minh mà phong lưu.

7. Đà La đồng cung với Hỏa tinh, Linh Tinh, mệnh đại hung, dễ có bạo bệnh, ví dụ như bệnh truyền nhiễm, bệnh dịch, bệnh truyền nhiễm về da, đường tình dục, đa phần là người có tai nạn chảy máu, tàn phế, hung tử, không có kết cục tốt.

(Kình Dương, Đà La hợp luận)

1. Trước Lộc là Kình Dương, sau Lộc là Đà la, tại số chủ hung ách, là hung thần của các cung. Cư đất tứ mộ thì nhập miếu, tọa mệnh thân, chủ hoạnh phát hoạnh phá, một khi vận may vừa đến, phát vận cực nhanh, 1 đêm thành danh, đột ngột thành công, nhưng một khi gặp vận xui thì khuynh bại cũng nhanh, thời gian từ khi bắt đầu đến khi kết thúc không dài.

2. Kình Dương hóa khí là Hình, Đà La hóa khí là Kỵ, cái hung này không thể đoán trước, không những chủ người cơ mưu gian trá, phá tướng đổ máu, cũng là dự báo về tai họa ngục tù, nhập 12 cung dù bất cứ cung nào cũng có sự phá hoại. Hai sao này hãm địa nhập mệnh, tam phương hội Hỏa Linh, tất có tai họa tù ngục.

Hoặc hai sao này hãm địa, đồng cung với Thất Sát, Phá Quân, Tham lang, Cự Môn, Liêm Trinh, Vũ Khúc, cũng là số phạm tội ngồi tù. Đà La tại Tỵ Hợi tọa mệnh, bất luận chính tinh đồng cung miếu vượng hay hãm, tỉ lệ ngồi tù rất cao, nếu tam phương còn có Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh, hầu như ngồi tù là tuyệt đối. Hoặc mệnh có chính tinh lạc hãm hội Địa Không Địa Kiếp, tam phương hội Dương Đà Hỏa Linh, cũng là tín hiệu tù lao. Hoặc Hóa Kỵ ở mệnh, đồng cung hội chiếu với Dương Đà, cũng có kiện tụng hình phạt, tù ngục khó tránh. Hoặc cung Di có Quan Phủ và Thất Sát, Kình Dương, chủ ly hương gặp người phối ngẫu, nhập tù báo hình.

3. Kình Dương Đà la đồng cung hay hội chiếu với hung tinh Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, Hỏa tinh, Linh Tinh, Hóa Kỵ, đầu, mặt tay chân có thương tích.

4. “Nhật nguyệt Dương Đà đa khắc thân”, Kình Dương, Đà La đồng cung với Thái Dương Thái Âm đồng cung tức đả thương người thân, mắt có tổn thương; gặp Tham lang, Liêm trinh thì phong lưu rước họa, hội chiếu với Tham Lang, vì hoa tửu mà diệt thân; đồng hành cùng Cự Môn, Thất sát, thì mắc bệnh mà hỏng mắt, bị lăng nhục mà sinh ám tật; đồng cung với Hỏa Linh, khi nhỏ khó nuôi, nhiều bệnh tật tai ương, phòng chết yểu phá tướng, nếu nuôi được thành người , cũng chủ tàn tật, chỉ thích hợp tăng đạo, hoặc theo tín ngưỡng tôn giáo, làm nhiều việc thiện có thể kéo dài.

5. Kình Dương, Đà La hội Thái Dương, Thái âm hoặc Hóa Kỵ đồng cung, nam khắc vợ, nữ khắc chồng.

6. Kình Dương hội Xương Khúc Tả Hữu có nốt ruồi kín, bệnh ở mắt.

7. Dương Đà giáp mệnh, mệnh có Lộc Tồn và chính tinh, Hóa Kỵ, là cách “Dương Đà giáp Kỵ”, là bại cách, luận là nghèo khổ, nếu mệnh không có Hóa Kỵ, Lộc Tồn đơn thủ, mà Dương Đà giáp mệnh, cũng có ngày hung họa.

8. Dương Đà và Hỏa Linh thủ mệnh thân, là người lưng gù, hoặc vì lý do ngoài ý muốn mà tàn tật, tử vong, nếu thương tật có thể kéo dài tuổi thọ. Chính tinh đồng cung lạc hãm, có dấu hiệu chết yểu, nếu cũng luận là ngồi tù.

9. Dương Dà hội ác tinh, là nô bộc, cả đời không thể phát đạt.

10. Mệnh người quân tử cũng có Dương Đà Hỏa Linh, mệnh kẻ tiểu nhân cớ gì không có Khoa Quyền Lộc, khi luận mệnh gặp điều này, cần phải xem được hay mất, luận nhập miếu hay hãm, mới có thể luận chính xác được.

11. Hễ thấy trong Dương, Đà, Hỏa Linh, Kỵ có hai hoặc ba sao lạc vào cung mệnh, chủ người không những không phải người lương thiện, có nạn ngục tù, mà tất không có kết quả tốt, là mệnh hung tử, lại hội Thiên Hình, thậm chí chết không toàn thây. Niên hạn phùng tổ hợp trên, đề phòng tai họa bất ngờ.

12. Hạn có Dương Đà, đề phòng có bệnh tật nặng, hoặc có tai nạn ngoài dự kiến, ít khi có kết cục tốt, nếu tích đức thì có thể tốt lên.

13. Nam nữ mệnh có Kình Dương, tất tái hôn.


------------------------------

------------------------------
Đã đọc : 6549 lần

Liên hệ tư vấn

hỗ trợ trực tuyến

CHÚ Ý: AVS KHÔNG TƯ VẤN QUA CHAT

tư vấn qua điện thoại (3.000 đồng/phút): 1900 68 50 hoặc (04)1088 - 1 - 7

tư vấn trực tiếp: 2/15, phố Đào Duy Từ, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội

Lĩnh vực tư vấn:

- tư vấn tâm lý tình cảm, hôn nhân, gia đình

- tư vấn nuôi dạy trẻ

- tư vấn sức khỏe tình dục: xuất tinh sớm, lãnh cảm, nghệ thuật phòng the, bệnh tình dục....

- tư vấn sức khỏe sinh sản, giới tính

- tư vấn trị liệu tâm lý

- Các vấn đề tâm lý khác như ly hôn, stress

Gọi -1900 68 50 để đặt lich tư vấn trực tiếp

Biểu giá tư vấn tại đây

Khách hàng tư vấn trực tuyến xem hướng dẫn tư vấn tại đây