Tử vi đẩu số: Sao Thiên Đồng

Phương Vị: Nam Đẩu Tinh

Tính: Dương

Hành: Thủy

Loại: Phúc Tinh

Đặc Tính: Phúc thọ

Tên gọi tắt thường gặp: Đồng

Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 5 trong 6 sao thuộc chòm sao Tử Vi theo thứ tự: Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh.

Vị Trí Ở Các Cung

Miếu địa ở các cung Dần, Thân.

Vượng địa ở các cung Tý.

Đắc địa ở các cung Mão, Tỵ, Hợi.

Hãm Địa ở các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Ngọ, Dậu.

Tướng Mạo

Thiên Đồng đắc địa thì thân hình nở nang, hơi thấp, chân tay ngắn, da trắng, mặt vuông vắn và đầy đặn. Còn Thiên Đồng hãm địa thì mập và đen. Người Thiên Đồng thường đầy đặn, nét mặt sáng sủa, da trắng. Hình tính phú viết về Thiên Đồng : "Thiên đồng phì mãn, mục tú thanh kì". (Người thiên đồng thì béo đầy, vẻ mặt thanh kỳ, mắt đẹp). Nhưng đấy là Thiên Đồng nhập Miếu. Còn nếu Hãm, hoặc gia ngộ Sát tinh Hình Kỵ thì thường có vết trên cơ thể, tuy da trắng nhưng không phì mãn, đặc biệt, mắt thường có điểm dị biệt. Phú nói “Thiên Đồng như Đà Kỵ phì mãn nhi mục miểu” (Thiên đồng giống như Đà Kỵ, béo đầy nhưng mắt thường có vẻ man mác buồn, hoặc có điểm khác lạ).

Trong Đẩu Số Tân Biên, Thái Thứ Lang viết “thân hình nở nang, hơi thấp, chân tay ngắn, da trắng, mặt vuông vắn đầy đặn”.

Với Nữ nhân, Thiên Đồng đắc địa nếu được hội cũng Quý Tinh, Xương Khúc, Khôi Việt thì Dung nhan mỹ ái. Phú nói “Phúc diệu phùng Việt Diệu, định thị hải hà dục tú” (Thiên Đồng mà gặp Thiên Việt, hẳn là người đẹp đẽ khoáng đạt như sống dài biển rộng)

Tính Tình

Sao Thiên Đồng ở cung miếu địa và vượng địa: thông minh, ôn hòa, đức hạnh, từ thiện, không có tánh quả quyết, hay thay đổi ý kiến, công việc, hoặc hay gặp cảnh bị bỏ dở nửa chừng, được hưởng sự phong lưu, khá giả, sống lâu. Người nữ thì đảm đang, ăn ở có đức, có niềm tin về thần linh, tôn giáo, làm lợi cho chồng con.

Sao Thiên Đồng cung đắc địa: thích phiêu lưu, nay đây mai đó, hay thay đổi chỗ ở, công việc lưu động, phong lưu, có niềm tin về thần linh, tôn giáo, làm phước, hay thay đổi chí hướng, không có lập trường dứt khoát, xử lý nặng về tình cảm, ân tình nghĩa lụy hơn là dùng lý trí, nguyên tắc, số ly hương, khó cầm giữ tiền của vững chắc.

Sao Thiên Đồng cung hãm địa: hay thay đổi thất thường, hay gặp sự trắc trở, dễ gặp thị phi, hiểu lầm, không cẩn trọng về ngôn ngữ, làm gì cũng phải nương vào người khác mới làm được, không có định kiến, phiêu bạt, ly hương. Riêng sao Thiên Đồng ở Ngọ là người có óc kinh doanh, thích mua bán.

Người Thiên Đồng thì Nhân hậu, từ thiện, thích làm việc thiện, ưa điều thiện. Thích các việc tâm linh, chùa chiền, lễ bái. Câu phú nối tiếng nói về tính tình của Thiên Đồng là “Thiên Đồng hoán cải vô thường” (thiên đồng nhập mệnh, là người thay đổi không ổn định). Do vậy mà Thái Thứ Lang mới viết “Canh cải thất thường” “không bền chí, hay thay đổi ý kiến, công việc”.

Thiên Đồng là Phúc tinh, đương nhiên là mang tính thiện. Người Thiên Đồng sống hòa đồng, có phần dễ dãi, không ưa tranh đấu cừu thù. Ghét thị phi miệng tiếng (trừ một vài trường hợp đặc biệt). Nếu Đồng miếu nhập mệnh thì bẩm tính ôn hòa lương thiện, đẹp lòng mọi người. Nếu hội được Văn Tinh, Quý tinh thì Văn mặc tinh thông, hiền lành mà ngay thẳng. Nếu hãm địa mà lại ngộ sát tinh hội hợp thì là người ba phải, không có chính kiến. Thích phiêu lưu thay đổi. Điểm đặc tính chung của Thiên Đồng là khả năng dục tính mạnh, cả Nam lẫn nữ. Nếu hãm địa, gia sát, Nam Nữ thường dâm bôn. Tài Lộc Phúc Thọ

Thiên Đồng đắc địa thì chỉ sự giàu sang.

Thiên Đồng hãm địa thì phải lo lắng về tiền bạc, tài sản khi có, khi tán, có lúc phải túng thiếu vất vả.

Thiên Đồng ở Ngọ thì chỉ năng khiếu kinh doanh. Nhưng về mặt phúc thọ, vì Thiên Đồng là phúc tinh nên dù hãm địa cũng thọ.

Những Bộ Sao Tốt

Thiên Đồng, Kình ở Ngọ: Có uy vũ lớn, được giao phó trấn ngự ở biên cương.

Thiên Đồng, Thiên Lương ở Dần, Thân: Làm nên, danh giá. Ngoài ra có khiếu về y khoa, dược khoa, sư phạm rất sắc bén.

Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương cách: Phúc thọ, làm công chức.

Thiên Đồng, Thiếu Âm đồng cung ở Tý: Phúc hậu và thọ; đẹp đẽ.

Những Bộ Sao Xấu

Thiên Đồng, Không, Kiếp, Hỏa Linh: U mê, nghèo khổ, sống qua ngày, ăn mày.

Thiên Đồng, Thái Âm ở Tý, Hổ, Khốc, Riêu: Đàn bà đẹp nhưng bạc phận, khóc chồng.

Thiên Đồng, Hóa Kỵ ở Tuất: Rất xấu trừ phi tuổi Đinh thì phú quý.

Thiên Đồng Khi Vào Các Hạn

Nếu sáng sủa thì hưng thịnh về tài, danh, may mắn. Nếu xấu xa thì hậu hạn xấu (hao của, bị kiện, tụng, bị đổi chỗ...).

THIÊN ĐỒNG LUẬN

PHẦN 1: Thiên Đồng thuyết.

Thiên Đồng, ngôi sao trong Tử vi hệ đóng ở vị trí thứ 4 sau sao Tử vi, thuộc về Nam Đẩu tinh. Trong Tử vi, Thiên Đồng được coi là Phúc tinh. Trên trời là thần cai quản cung Phúc Đức, chủ về việc tế tự. Nhập mệnh Hóa khí là Phúc tinh.

Thiên Đồng thuộc Thủy, Miếu địa tại Dần - Thân, vượng địa tại Tý, đắc địa tại Mão-Tỵ-Hợi, hãm địa tại Ngọ-Dậu-Thìn-Tuất-Sửu-Mùi. Tại Dần–Thân thì đồng cung với Thiên Lương, Tại Tý-Ngọ thì đồng cung với Thái Âm, Tại Sửu–Mùi thì đồng cung với Cự Môn.

Đối với Cổ nhân nhìn nhận về sao Thiên Đồng cho rằng : Thiên Đồng – Thập nhị cung trung giai viết phúc. Tức là trong cả 12 cung, Thiên Đồng cư cung nào cũng giáng Phúc cho cung đó. Thiên Đồng nhập mệnh là người Thông minh, có tính thiện, bẩm tính ôn lương khoan hòa nhân hậu. Nếu nhập miếu thì Phú Quý Phúc Thọ toàn vẹn, nhược bằng hãm địa thì phiêu dạt, thoái tổ ly tông.

Vì Thiên Đồng là Phúc Thần, chủ quản việc tế tự, nên người Thiên Đồng thường ưa các việc tâm linh, chùa chiền lễ bái. Vì là Phúc Thần nên Thiên Đồng rất có lợi trong việc sinh sản, hôn nhân. Hạn đến Thiên Đồng khả dĩ có thể thêm nhân khẩu trong nhà.

Cổ nhân luận về sao Thiên Đồng

La Hồng Tiên tiến sĩ viết:

“Thiên đồng tinh chúc thủy, nãi nam phương đệ tứ tinh dã, vi phúc đức cung chi chủ tể. Phục vân: hóa phúc tối hỉ ngộ cát diệu, trợ phúc thiêm tường, vi nhân liêm khiết, mạo bẩm thanh kì. Hữu ki xu vô kháng kích, bất phạ thất sát tương xâm, bất phạ chư sát đồng triền. Hạn nhược phùng chi, nhất sanh đắc địa, thập nhị cung trung giai viết phúc, vô phá định vi tường”

Tạm dịch: Thiên Đồng thuộc thủy, là ngôi thứ 4 trong chòm Nam Đẩu, là chủ tể cung Phúc Đức. Lại nói rằng: Hóa Phúc (Thiên Đồng) tối hỉ nếu gặp được cát diệu, trợ phúc thêm điều lành. Là người liêm khiết, dung mạo vốn dĩ đẹp đẽ. Gặp cơ hội cũng không tranh giành vội vã. Chẳng sợ Thất Sát xâm hại, chẳng sợ các sát tinh khác vây bọc. Hạn nếu gặp được (thiên đồng), là được đắc địa, mười hai cung đều nói rằng được ban phúc. Nếu không bị phá, nhất định là điềm tốt.

Hi Di tổ sư viết:

“Thiên đồng nam đấu ích toán bảo sanh chi tinh, hóa lộc vi thiện, phùng cát vi tường, thân mệnh trị chi, chủ vi nhân khiêm tốn, bẩm tính ôn hòa. Tất từ ngạnh trực, văn mặc tinh thông, hữu kì chí vô hung kích. Bất kị thất sát tương xâm, bất úy chư hung đồng độ, thập nhị cung trung giai vi phúc luận. Ngộ tả hữu xương lương quý hiển, hỉ nhâm ất bính sanh nhân, tị hợi hãm địa. Bất nghi lục canh sanh nhân cư dậu địa, chung thân bất thủ. Hội tứ sát cư tị hợi vi hãm, tàn tật cô khắc. Nữ nhân phùng sát trùng phá, hình phu khắc tử. Lương Nguyệt trùng phá, hợp tác thiên phòng, tăng đạo nghi chi, chủ hưởng phúc”

Tạm dịch: Thiên Đồng thuộc Nam Đẩu tinh, lợi ích cho việc sinh lời, bảo trợ cho sinh sản. Hóa khí là Thiện Tinh, gặp được cát tinh thì tốt, nếu nhập vào Thân Mệnh, chủ về người khiêm tốn, bẩm tính ôn hòa, hiền mà ngay thẳng, văn mặc (học vấn, văn chương) tinh thông, gặp cơ hội cũng không vội vã. Không sợ Thất sát xâm hại, chẳng sợ hung tinh vây khốn. Mười hai cung đều luận là tốt. Gặp Tả Hữu Xương Lương thì quý hiển, rất tốt đối với người tuổi Nhâm, tuổi Bính. Đắc địa tại Tỵ Hợi, không nên gặp ở người tuổi Canh mà lại cư Dậu, nếu gặp như thế thì Chung thân bất thủ (không giữ được tiết nghĩa). Nếu hội cung Tứ Sát mà đóng ở Tỵ Hợi là xấu, ắt tàn tật cô khắc. Nếu Nữ nhân có Thiên Đồng mà gặp Sát tinh, trùng phùng với Phá, ắt hình phu khắc tử. Nếu Lương Nguyệt trùng Phá, dễ làm lẽ mọn, nên làm tăng đạo, thì được hưởng phúc.

Vân Đằng Thái Thứ Lang viết:

“……

− Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa là người thông minh, có tính khoan hòa, nhân hậu, từ thiện, nhưng không quả quyết, không bền chí, hay thay đổi ý kiến, công việc. Tuy vậy, vẫn được hưởng giàu sang và phúc thọ song toàn.

− Đồng Đắc địa tại Tỵ, Hợi, lại là người thích phiêu lưu, nay đây mai đó, và hay thay đổi chỗ ở.

− Đồng Đắc địa tại Tỵ, Hợi, khắc tuổi Đinh, Canh, vậy cho nên tuổi Đinh, Canh mà cung Mệnh an tại Tỵ, Hợi, có Đồng tọa thủ, tất suốt đời chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng.

− Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nhất là Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc, chắc chắn là được hưởng phú quí đến tột bực và có uy danh lừng lẫy.

− Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa, gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Sát tinh, Hình tuy suốt đời vẫn được no cơm ấm áo, nhưng lao tâm khổ tứ, sức khỏe lại suy kém, thường có bệnh tật hoặc ở mắt, hoặc ở bộ tiêu hóa.

− Đồng Hãm địa là người kém thông minh và nông nổi, cũng có tính nhân hậu, nhưng thay đổi thất thường, không quả quyết, không có định kiến, làm việc gì rồi cũng chóng chán, lại thích chơi bời ăn uống, tuy sống lâu nhưng rất vất vả, thường phải ly tổ bôn ba, luôn luôn lo lắng vì sinh kế, lại hay mắc tiếng thị phi. Cung Mệnh có Đồng Hãm địa tọa thủ, nên đi buôn.

− Đồng Hãm địa, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, lại là người hay nói khoác lác và không cẩn ngôn.

− Đồng Hãm địa Ngọ, là người có óc kinh doanh.

− Đồng Hãm địa Tuất, Ngọ ứng hợp với tuổi Đinh. Vậy cho nên tuổi Đinh mà cung Mệnh an tại Tuất, Ngọ có Đồng tọa thủ, tất nhiên là khá giả.

− Đồng Hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Xương Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc phải đoán là cũng có công danh và tiền tài.

− Đồng Hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Sát tinh, Kỵ, Hình. Thật là suốt đời lao khổ phải lang thang phiêu bạt, thường có bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ tiêu hóa, lại hay mắc tai nạn và không thể sống lâu được.

NAM MỆNH:

Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa thủ Mệnh, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, tất được hưởng phú quí đến tột bậc, có uy danh lừng lẫy. Phúc thọ song toàn.

− Đồng Hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật là suốt đời lao khổ, phải lang thang phiêu bạt, thường có bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ tiêu hóa, lại hay mắc tai nạn và không thể sống lâu được.

NỮ MỆNH:

− Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa, Mão thủ Mệnh, là người đảm đang, có đức độ, rất vượng phu ích tử.

− Đồng Đắc địa, Tỵ, Hợi, là người đảm đang, nhưng đa dâm, thường phải sớm ly tổ.

− Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa, tất được hưởng giàu sang và sống lâu. Đây nếu Đồng gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, chắc chắn là được hưởng phú quí đến tột bực, và phúc thọ song toàn.

− Đồng Đắc địa, Tỵ, Hợi, hay Hãm địa, phải muộn lập gia đình hay lấy kế lấy lẽ, mới tránh buồn thương.

− Đồng Hãm địa là người hoang đãng dâm dật, tuy được no cơm ấm áo và sống lâu, nhưng suốt đời vất vả, thường phải sớm ly tổ, bôn ba, nay đây mai đó. Đây, nếu Đồng gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật là chung thân cùng khốn cô đơn, khắc chồng hại con, phải lang thang phiêu bạt, lại có bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ tiêu hóa, hoặc ở tử cung và hay mắc tai nạn: tuổi thọ cũng bị chiết giảm. …………”

PHẦN 2 : Thiên Đồng Phụ Luận

Như trên đã nói về các điều khái quát của Thiên Đồng. Cổ nhân cho rằng, Thiên Đồng là một Phúc Tinh, không sợ Hung Tinh Thất Sát, chẳng sợ các hung tinh khác vây bọc. Lại cho rằng trên cả 12 cung, cung nào cũng ban phúc.

Xin Phụ luận về mấy luận điểm trên đây:

Thứ nhất : Số Mệnh người Thiên Đồng như thế nào?

Thiên Đồng nhập mệnh, vốn dĩ là Phúc Thiện Tinh, hợp với nhóm văn tinh, quý tinh, cho nên nếu đắc cách hội được Tả Hữu, Xương Khúc thì văn mặc tinh thông, kiến văn quảng bác, cổ nhân nói rằng “Thiên Đồng dữ Xương Khúc tụ củng – Chủ hoa vinh” - Một đời quý hiển nhàn nhã. Nếu hội được thêm Khoa Quyền Lộc Quý, thì Phú Quý toàn vẹn ít ai bằng. Phú viết rằng “Thiên Đồng hội cát thọ nguyên thời”, nếu Thiên Đồng tránh xa được sát tinh, dâm tinh. Hội cát tinh thì tuổi thọ, phúc ấm cao dày.

Nhược bằng hãm địa, thì phiêu dạt, thoái tổ ly tông, Nếu hãm mà gặp sát tinh, ắt tàn tật, cô khắc hoặc mang bệnh nan y trong người. Nếu hãm mà gặp Dâm tinh thì hoang dâm vô độ, tuổi thọ chiết giảm. Phúc ấm suy đồi.

Thiên Đồng, với cổ nhân có 2 tính xấu :

+ Thứ nhất là cái sự hay thay đổi, không ổn định. Luận về Thiên Đồng, cổ nhân phê rằng :” Thiên Đồng nhập mệnh, hoán cải vô thường”. Tức là thay đổi không ổn định, không biết đâu mà lần.

+ Thứ hai là công danh, tài lộc thường chậm muộn. Cổ nhân phê rằng “Thiên Đồng bạch thủ thành gia” (Thiên đồng – tay trắng làm nên cơ nghiệp). hay cụ thể hơn “Thiên đồng bạch thủ sinh tài vãn phát”. (thiên đồng tay trắng làm ra tiền bạc, nhưng cuối đời mới phát).

Về đặc tính thứ nhất, cổ thư đều nói rằng “thiên đồng canh cải thất thường”, cái sự biến đổi của Thiên Đồng không thể lường trước được. Nhưng không nên hiểu theo nghĩa hẹp là TÍNH NGƯỜI. Đúng là về TÍNH thì người Thiên Đồng cũng rất hay thay đổi, mục tiêu, chí hướng thường không rõ ràng. Dễ quên, dễ tha thứ, dễ bị người khác làm cho lung lạc. Còn trên phương diện tổng quát, cái sự “hoán cải vô thường” nó thể hiện cả trên số mệnh. Người Thiên Đồng thì công danh, việc làm, gia đình, chỗ ở đều có xu hướng không ổn định. Trong các thế đứng của Thiên Đồng, thì tại Tỵ Hợi, Thiên Đồng đối cung với Thiên Lương, tạo ra cách “Đồng Lương Tỵ Hợi”, theo cách này thì “Nam đa lãng đãng, nữ đa dâm”, Nam thì phiêu dạt giang hồ nơi chân trời góc bể, nữ thì dâm bôn. Cái câu “nam đa lãng đãng” chỉ rằng con người phiêu du, phiêu lãng không có gì ổn định. Đây cũng là một đặc tính xấu của Thiên đồng.

Thiên Đồng gặp Thiên Riêu tâm tình y như người đồng bóng ưa giận dỗi, nay thế này, mai thế khác. Số nữ có Thiên Đồng thì hiền thục nhưng khó chiều, dễ hờn mát. Thiên Đồng khoái hưởng thụ hơn phấn đấu. Chủ về Phúc nên đóng ở cung Phúc Đức kể như tốt nhất. Phúc Đức cung có sao Thiên Đồng đời đời mãi mãi sống sung túc với điều kiện không đi cùng Cự Môn.

Điểm đặc biệt của Thiên Đồng là không sợ Sát Kị, dễ có thể dựa vào Sát Kị làm khích phát lực. Sát Kị đẩy Thiên Đồng vào quyết liệt phấn đấu. Đó chính là lý do cổ nhân đưa ra câu phú: ‘Thiên Đồng Tuất cung Hóa Kị Mệnh ngộ phản vi giai (Thiên Đồng tại Tuất hội Hóa Kị thủ Mệnh hóa ra tốt)

"Đồng đóng cung Tuất yên vì

Hãm cung nhưng lại được bề hiển vinh

Nhờ sao Hóa Kị thêm xinh

Ấy là ưng hợp dễ thành giàu sang"

Cách Thiên Đồng cung Tuất hội Hóa Kị cổ thư gọi bằng ‘Càn cung phản bối’. Không phải chỉ gặp Hóa Kị không là đủ. Hóa Kị còn cần Cự Môn, Hóa Lộc, Văn Xương thì mới đến tình trạng bĩ cực thái lai sức dồn ép đến sức cùng bật ngược trở lại.

Song song với cách ‘Càn cung phản bối’ là cách ‘Mã đầu đới tiễn’ (Cung tên treo cổ ngựa). Mã đầu chi cung Ngọ, tiển là Kình Dương. Chỉ những người tuổi Bính Dậu mới gặp Kình Dương thôi.

Phú nói ‘Thiên Đồng Kình Dương cư Ngọ vị, uy chấn biên cương’ nghĩa là ‘Thiên Đồng đóng cung Ngọ gặp Kình Dương uy thế ra tới ngoài biên ải. Đừng nhầm lẫn hễ cứ thấy Thiên Đồng hội Kình Dương cả ở cung Tí mà gọi là ‘Mã đầu đới tiễn’. Cung tên chẳng thể treo ở cổ chuột.

Tử Vi Đẩu Số viết: ‘Người tuổi Bính an Mệnh ở cung Tỵ, Hợi gặp Thiên Đồng, công danh tiền bạc tốt’. Đó là cách Điệp Lộc (hai sao Lộc). Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn từ cung xung chiếu Tỵ. Cách Điệp Lộc thì giàu có. Nếu thêm Tả, Hữu, Khôi, Việt còn sang cả nữa.

Thiên Đồng đóng Dậu, người tuổi Bính cũng Điệp Lộc. Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn từ cung Tài Bạch đứng cùng Cự Môn chiếu qua, Hóa Quyền đi theo Thiên Cơ chiếu lên, tiền bạc khá giả nhưng không hay bằng cách Điệp Lộc của Thiên Đồng Tỵ Hợi bởi lẽ cả ba sao Đồng Cơ Cự không đắc địa.

Còn như Thiên Đồng tại Sửu mà tuổi Bính cũng Điệp Lộc. Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn cung Quan kém hơn. Vì Cự Đồng đồng cung gây chướng ngại trên hoàn cảnh cũng như trên tính tình. Và Lộc ở Quan cũng chẳng bằng Lộc ở cung Tài Bạch.

Điệp Lộc còn vào người tuổi Đinh khi Thiên Đồng đóng Ngọ, nên Tử vi trong tinh điển mới viết: “Đồng Ngọ hãm, Đinh nhân nghi chi”. Đồng Âm Ngọ hãm địa, nhưng tuổi Đinh lại tốt vì có Điệp Lộc. Vậy thì Thiên Đồng cần Điệp Lộc.

Với tuổi Canh, cách Thiên Đồng có một điểm nghi nan trên an bài Tứ Hóa. Tuổi Canh Đồng gặp Hóa Kị hay Hóa Khoa? Là Nhật Vũ Đồng Âm hay Nhật Vũ Âm Đồng?

Theo trình tự của Tứ Hóa? Không ai đủ uy quyền mà quyết định. Bên Trung Quốc đã bàn cãi nhiều mà rút cục phe nào làm theo ý phe ấy. Người trọng tài duy nhất chỉ là Trần Đoàn tiên sinh thôi, mà tiên sinh thì chưa sống lại. Tuổi Canh hễ dính dấp đến Thiên Đồng vấn đề muốn nát óc, phải mượn tướng cách mà đoán thêm.

Toàn thư viết rằng: “Nhược tại Hợi địa, Canh sinh nhân hạ cục cách ngộ Dương Đà Linh Kị xung hội, tác cô đan phá tướng mục tật”. Câu trên nghĩa là Nếu Đồng đóng Hợi mà tuổi Canh thì xấu, lại gặp cả Dương Đà Linh Kị nữa, thì cô đơn, phá tướng, có mục tật (cận thị nặng hoặc đui mù). Vịn vào câu trên mới lập luận chắc

Thiên Đồng bị Hóa Kị nên mới thành hạ cục, thiết nghĩ không lấy chi làm rõ lắm. vì cũng câu trên lại bảo ‘cánh ngộ’ (lại gặp cả) Hóa Kị. Sao phải dùng chữ ‘cánh ngộ’ nếu như đương nhiên Thiên Đồng đi với Hóa Kị.

Và rõ ràng hơn ở mục sắp xếp các sao thì chính Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư vẫn sắp Hóa Kị đứng bên Thái Âm.

"Canh Nhật Vũ Đồng Âm vi thủ

Tân Cự Dương Khúc Xương chí."

Về cách ‘Càn cung phản bối’ của Thiên Đồng tại Tuất đứng với Hóa Kị, cách này chỉ hiện lên vì hai tuổi Tân và Đinh. Tuổi Tân, Hóa Kị theo Văn Xương đóng Tuất hoặc Thìn (tùy theo giờ sinh Tí Ngọ). Tuổi Đinh, Hóa Kị theo Cự Môn đóng Thìn. Tuổi Tân Cự Môn còn có cả Hóa Lộc nữa.

Tuổi Đinh thì Đồng đứng bên Hóa Quyền

Khi giải thích về: “Càn cung phản bối”, cổ nhân viết câu :”Thiên Đồng tại Tuất, Đinh Tân nhân ngộ phản vi kì” là thế.

Thiên Đồng cần đi với Hóa Lộc, ở trường hợp ‘Càn cung’ nó cần Hóa Kị để làm sức khích động, sức khích động ấy chuyển tình trạng bất lợi sang tình trạng thuận lợi, chuyển hàn vi thành khá giả.

Bĩ cực thái lai, cổ nhân ngầm báo cho hay rằng cách Càn cung phản bối trước khi nên công phải bị đẩy vào chỗ bĩ đa. Thiên Đồng còn được nhận như bạch thủ hưng gia (tay trắng làm nên) chính là rút tỉa từ cách ‘Càn cung’ vậy. Cách ‘Càn cung phản bối’ cổ nhân cho rằng không hợp với nữ mạng. Đàn ông con trai phải thiên ma bách triết được, đàn bà mà như thế chẳng khác gì cô thôn nữ chất phác dấn thân vào chốn phồn hoa.

Chỉ thấy nói Thiên Đồng tại Tuất mới có cách Càn vi phản bối. Thiên Đồng tại Thìn thì không. Không thấy Đẩu số toàn thư giảng tại sao? Tuy nhiên có luận cứ của người đời sau cho rằng Thìn là cung Thiên La, Tuất là cung Địa Võng. Đã Thiên thì hết khích động phản ứng, chỉ có Địa tiếp xúc với cái thực tế trước mặt mới chịu khích động phản ứng mà thôi. Luận cứ này cũng cho rằng Thiên La nên hiểu theo nghĩa Thiên Nhai, Địa Võng nên hiểu theo nghĩa Địa Dốc (chân trời góc biển). Thiên Nhai (chân trời) không tạo khích động lực như Địa dốc. Cái gì thuộc trời như đã an bài rồi, cái gì thuộc đất còn tiếp tục đấu tranh.

Vào số nữ, cổ nhân cho rằng không nên nếu nó đi với Thái Âm hay Thiên Lương.

"Đồng Âm ở Ngọ ở Tí

Đồng ở Tuất hội chiếu Cơ Âm ở Dần

Đồng ở Dậu đối xung với Thái Âm tại Mão

Đồng đóng Mão, Thái Âm tam hợp từ Hợi

Đồng Lương cùng đóng Dần Thân

Đồng ở Tỵ Lương ở Hợi, Đồng ở Hợi Lương ở Tỵ"

Đẩu Số Toàn Thư viết:”Nữ mệnh bị sát xung phá ắt hẳn hình phu khắc tử, Nguyệt Lương xung phá và hợp thường làm thứ thất hay lẽ mọn”. Ngoài ra cũng sách trên viết câu: “tuy mỹ nhi dâm” (tuy đẹp nhưng mà dâm). Thiên Đồng cung Tí là người đàn bà nhan sắc diễm lệ:

"Đồng Nguyệt Tí gái hoa dung

Gặp Tang, Riêu, Khốc khóc chồng có phen"

Đồng Âm tại đây nếu bị Tang Riêu Khốc thường ly phu, khắc phu thậm chí sát phu. Đồng Âm ở Ngọ đa đoan, nhan sắc không đẹp như Đồng Âm cung Tí nhưng tính dục cực vượng thịnh. Đồng Dậu, Nguyệt Mão, Đồng Mão Nguyệt Hợi cũng đẹp và dâm vậy. Luận đoán quan kiện đặt trên căn bản ý chí lực và tình tự. Thiên Đồng chịu ảnh hưởng của Thái Âm làm cho ý chí lực bạc nhược. Nếu bị xung phá của Hỏa Linh càng bạc nhược lại thêm bị kích thích. Thiên Đồng chịu ảnh hưởng của

Thiên Lương đưa ý chí vào mộng cảnh. Nếu bị Kình Dương Đà La thì càng như sống trong mơ.

Chủ yếu khi luận đoán về Thiên Đồng là ý chí và tình tự. Ý chí với tình tự phải cân bằng khi vào nữ mạng thì cuộc đời mới yên ổn thảnh thơi. Bị Thái Âm làm cho bạc nhược ý chí, bị Thiên Lương làm cho viển vông tình tự đều không hay, nếu như lại chịu xung phá của Kình Đà Linh Hỏa lại càng thêm phiền nữa.

"Thiên Đồng mừng thấy Khoa Lộc đi bên

Ý chí tình tự vừa đúng, cân bằng"

Nếu Thiên Đồng gặp Quyền, Kị, Lộc, ý chí tình tự cũng mất thăng bằng như gặp Linh Hỏa Lương Âm Kình Đà. Cổ nhân cho rằng cơm no ấm cật quá tất nghĩ chuyện dâm dật.

Phú có câu: “Nữ Mệnh Thiên Đồng tất thị hiền” (Người nữ Thiên Đồng thủ mệnh hiền thục). Thiên Đồng không giản đơn như thế đâu. Như cách Cự Đồng vào nữ thì tâm trạng không lúc nào hết thống khổ.

Bản chất hiền thục tất cần an định êm ả, không có khả năng chống trả với phá phách phiền nhiễu nên Thiên Đồng ý chí phải vững vàng không bạc nhược, không quá khích, tình tự phải chân chất, không viễn vông mơ ước hão. Bởi vậy Thiên Đồng sợ Kị, Kình Đà, Lương Âm, Hỏa Linh.

Các sao trong Tử vi khoa ẩn chứa cái lý của nhân sinh thật phong phú. Thiên Đồng Thái Âm đi vào nam mạng thì sao? Đồng với Thái Âm ở Tí Ngọ đều là con người hào hoa đa tình. Thiên Đồng Dậu Mão dễ vướng bẫy tình. Cự Đồng đóng cung Sửu Mùi, nam mạng tầm thường cuộc đời nhiều chướng ngại.

“Dần thân tị hợi” là nơi tứ Trường sanh. Đối với Thiên Đồng có lợi nhất, có thể gia tăng “Phúc trạch” của Thiên Đồng, nhưng nó lại vẫn cứ là một kết cấu nguy hiểm, câu chuyện đã thuật trước của vị độc giả tuần san giúp cho Vương Đình Chi nhìn ra Anh ta có ý niệm tự sát trong đầu, mệnh tạo của vị độc giả kia là thuộc về kết cấu, cách cục này.

Kết cấu này, rất nhiều khi ngược lại không sợ gặp Sát, Hình, Kỵ, nhưng lại sợ một số cát tinh, cái lý trong đó rất là vi diệu.

Một đặc điểm riêng của kết cấu này là không nên gặp ở nữ mệnh, nữ mệnh gặp Thiên Đồng Thiên Lương, rất nhiều khi gặp gỡ biến thành “quá lộ khê tiễn” (tiền qua đường, qua suối) hoặc là “đơn liệu đồng bảo” (tiên liệu nung chảy đồng) (*), vì lẽ đó cũng dễ dàng sa ngã, không lại nhất định là thông minh hơn người, “nói đầu dấu đuôi”. Nhưng thường thường có phối hợp của một hai tá diệu hoặc tạp diệu mới có thể phát sinh thay đổi rất lớn, đôi khi là chủ nhân thông minh mà trinh liệt, cho nên gặp lá số nữ nhân có cách cục “Đồng Lương mệnh”, không thể không suy tính cẩn thận, y theo bản phường mà nói thẳng, thời giống như ăn nhiều bội thực cứng nhắc.

Thiên đồng là sao thứ tư của Nam Đẩu, thuộc dương thủy, hóa khí là "phúc".

Trong Đẩu Số, sao Thiên đồng được ví là vị thần chuyên trông coi việc ăn uống, sắp xếp yến tiệc cho hoàng đế, vì vậy thiên đồng có đặc tính là hưởng thụ, theo đó khuyết điểm là lãng phí và nhu nhược.

Tồn tại một khái niệm khá phổ biến, cho rằng "Thiên đồng ở trong 12 cung, đều là phúc trạch", thực ra không phải vậy. Vương Đình Chi cho rằng "Thiên đồng ở 12 cung đều có khuyết điểm".

Nói về cung mệnh, người có Thiên đồng thủ mệnh, Cát thì chủ về khiêm tốn, thông minh mẫn tiệp, phong thái cao thượng phong nhã; Hung thì chủ về chìm đắm trong dục lạc, hay do dự thiếu quyết đoán, hoặc chỉ có kế hoạch tốt mà không thực hiện.

Thiên đồng úy kị tính cứng rắn và hình khắc của Hỏa tinh và Linh tinh, nhưng lại không sợ Kình dương. Khi Thiên đồng nằm cùng cung với Kình dương ở Ngọ, gọi là "Mã đầu đới tiễn" trái lại, sẽ chủ về người nắm thực quyền trong quân đội hoặc cảnh sát.

Thiên đồng ở Hợi không ưa Hóa Kị (năm Canh). Nếu can của cung Hợi hóa Kị, gọi là hóa xuất, lại gặp thêm Lục sát và Thiên hình, thì chủ về hình khắc cô độc, hoặc bị tai nạn bệnh tật làm tổn thọ.

Thiên đồng rất ưa trấn thủ tại Tuất, gặp Cự môn hóa Kị ở xung cung lai chiếu, được gọi là "phản bối", nếu được Lộc tồn và Hóa Lộc hội hợp, là hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai, biến thành mệnh đại quý.

Nữ mệnh Thiên đồng cuộc sống thường sung túc, nhưng dễ cảm thấy tinh thần trống rỗng. Cổ nhân cho rằng "Nữ mệnh Thiên đồng cư Tị Hợi nhập miếu, thì đẹp mà dâm". Luận đoán này được suy diễn ra từ tính chất tinh thần trống rỗng. Ở phương diện sự nghiệp hoặc phương diện sở thích, nếu có thể làm cho sinh hoạt tinh thần trở nên phong phú, thì vẫn tránh được cái gọi là "đẹp mà dâm", đời sống hôn nhân tự nhiên sẽ được vui vẻ. Thiên đồng rất cần sinh hoạt tinh thần phong phú và đa dạng, để lấp đầy cảm giác nhàm chán.

Phàm Thiên đồng nhập cung Mệnh hoặc cung Phúc đức, chỉ cần không có Hóa Kị, phần nhiều chủ về tài năng âm nhạc, hoặc ưa thích cái đẹp, do đó chẳng khó tìm nơi để ký thác về phương diện tinh thần.

Bất kể là nam hay nữ, nếu Thiên đồng thủ mệnh, gặp sao Sát Hình, thì trái lại, Thiên đồng lại có thể có năng lực khai sáng, mà không bị sầu muộn về phương diện tinh thần. Nếu chỉ gặp sao Cát, mà không gặp các sao Sát Hình, thì trái lại, Thiên đồng dễ chìm đắm trong lạc thú mà trở thành phóng đãng. Đây giống như thời xưa, hoàng đế không có trung thần can gián, ở vào thời chưa gặp họa loạn, dễ vì lời sàm tấu của nịnh thần mà biến thành hôn quân.

Thiên Đồng ở 12 cung đều có khuyết điểm, cổ nhân nói, “Thiên Đồng vào 12 cung đều là phúc trạch”, đây là nói rốt cuộc nó có thể khắc phục khuyết điểm. Như ở cung mệnh, chủ về tay trắng làm nên, tức là cần phải lưu ý cung phụ mẫu, xem cha mẹ của mệnh tạo có phá tán, thất bại hay không, hay vận trình lúc còn trẻ có phá tán, thất bại hay không.

Thiên Đồng chủ về tâm trạng, cho nên lúc có các sao phụ, tá tụ hội, chưa chắc đã cát lợi, bởi vì có thể xảy ra tính ỷ lại, khiến đời người dễ vì thành tựu nhỏ mà đã an vui không chịu tiến thủ.

Thiên Đồng thuần tuý là sao tinh thần, ưa được kích phát, mới có tinh thần phấn chấn. Vì vậy, gặp sát tinh và Hoá Kỵ, có lúc lại chủ về trải qua gian nguy sau mới có được thu hoạch lợi ích.

Thiên Đồng gặp các sao cát, hình trùng trùng, chủ về tinh thần rối rắm khó xử. Nếu gặp thêm các tạp diệu Thiên Hình, Thiên Hư, Đại Hao, Âm Sát, mà bản thân Thiên Đồng lại hoá làm sao kị, thì nên đề phòng bệnh tinh thần, hay tâm lý mất quân bình mà gây ra bệnh hoạn. Nếu gặp thêm cát tinh cũng chủ về tinh thần bị áp lực.

Do Thiên Đồng ưa được kích phát, trừ phi nguyên cục có các sao sát, kị, hình, hao trùng trùng, nếu không, thông thường nó ưa đến cung hạn Thất Sát tọa thủ. Cung hạn này hơi gặp cát tinh, mà tam phương tứ chính còn có sao lộc, tức là vận mệnh chủ về phát mạnh. Bất kể đại hạn hay lưu niên đều như vậy.

Thiên đồng thuộc dương thủy, sao thứ tư của Nam Đẩu, chủ về kéo dài tuổi thọ, làm chủ cung Phúc đức, hóa khí gọi là Phúc.

Cổ nhân gọi sao Thiên đồng là "Ích thọ chi tinh, bảo sinh chi tú" (Sao ích thọ, sao bảo vệ sinh mệnh). Thiên đồng nhập mệnh chủ về thời trẻ nước da mặt trắng, trung niên về già biến sắc ngả trắng vàng, mặt hình chữ nhật. Khi Thiên đồng nhập miếu thì người béo mập, gặp hãm địa thì thấp bé, tính ôn hòa từ thiện có cơ trí, không cao ngạo, tinh thông văn chương bút mực. Nếu gặp Sát tinh đồng cung hay xung chiếu, thì chủ về cô đơn, phá tướng. Nếu đồng cung với Đà la phần lớn là mắt híp, mắt lé và thường phát phì. Nếu nam mệnh Thiên đồng nhập cung Quan, mà bản mệnh không hình thành được cách cục, thì không thể luận là cát. Vì đặc tính lớn của Phúc tinh chỉ biết an hưởng, không có năng lực sáng tạo.

Thiên Đồng: chỉ có ý nghĩa quan lộc nếu đắc địa trở lên. Thông thường, sao này chỉ quan cách nhưng riêng ở Mão thì văn võ kiêm toàn. Đồng chỉ thực sự quý hiển nếu ở cung Tý, cung Dần và cung Thân. Trong mọi trường hợp, Đồng chỉ loại viên chức làm việc lưu động, thường hay đổi công việc, cụ thể như thanh tra, đại sứ, liên lạc viên, giao liên hoặc gặp hoàn cảnh phải đổi nghề, đổi chỗ làm tương đối mau chóng. Nếu đồng cung với Thiên Lương, Đồng rất xuất sắc trong các ngành chính trị, y khoa, sư phạm. Đồng cung với Nguyệt ở Tý, Đồng cũng lỗi lạc. Nếu hãm địa, quan cách nhỏ thấp, thăng giáng thất thường và bất đắc chí trong nghề nghiệp.

Thiên đồng là nam đẩu đệ tứ tinh, ngũ hành thuộc dương thủy, hóa khí là phúc.

Tại tử vi đẩu số, thiên đồng ví như cận thần sắp xếp sinh hoạt ăn uống hằng ngày của hoàng đế, an bài yến nhạc hưởng thụ, cho nên có tính chất là hưởng thụ, khuyết điểm tất là lãng phí và yếu đuối.

Có một khái niệm tương đối phổ biến, cho rằng thiên đồng tại mười hai cung đều là phúc trạch (tốt, may mắn), bản môn thậm chí lại có thể nói, thiên đồng cư mười hai cung đều có khuyết điểm. Học giả sau khi hội đắc có thể giải thích.

Tại mệnh cung, người mệnh thiên đồng tốt lành tất chủ nhân thông minh khiêm tốn, phong cách tao nhã, nhưng nếu hung tất chủ nhân đam vu dục nhạc (đam vu : say mê, ham mê), do dự thiếu quyết đoán, hoặc chỉ có lý thuyết mà không thực hành, có kế hoạch mà không thực hiện, không thực tế (hảo kế hoa, bất vu thật).

Thiên đồng sợ sự cương khắc hỏa tinh, linh tinh, nhưng lại không ngại kình dương. Tại ngọ cung cùng kình dương đồng cung hoặc hội hợp, gọi là mã đầu đới kiếm, trái lại chủ có thể nắm đại quyền quân cảnh.

Thiên đồng vào hợi bất hỉ hóa kị, nếu kiến hóa kị, lại hội tứ sát không kiếp hay thiên hình, chủ hình khắc cô đơn, hoặc tai bệnh xâm thọ.

Tối hỉ tọa tuất cung, và đối cung tức thìn cung, kiến cự môn hóa kị gọi là Càn cung phản bối.Đắc lộc tồn hoặc hóa lộc hội hợp, là bỉ cực thái lai, thành ra mệnh đại quý.

Nữ mệnh thiên đồng, y lộc phong túc, chỉ có điều dễ dẫn đến tinh thần hư không (trống rỗng).Cổ nhân nói nữ mệnh thiên đồng tị hợi tuy đẹp mà dâm.Nếu có thể tăng cường sinh hoạt tinh thần, gởi gắm vào sự nghiệp hoặc sở thích, tất có thể ngăn ngừa, vẫn chủ hôn nhân sinh hoạt hạnh phúc.Phàm thiên đồng tọa mệnh, hoặc cư phúc đức cung, chỉ cần không hội hóa kị tinh, chủ có tài năng về phương diện âm nhạc, hoặc yêu thích những sự vật đẹp đẽ, như thế không khó để gởi gắm về phương diện tinh thần.

Vô luận nam nữa, nếu thiên đồng thủ mệnh, ngộ sát diệu, hình diệu ,trái lại có lực khai sáng, không đến nỗi sản sinh tinh thần buồn khổ.Nếu chỉ ngộ cát diệu mà không phùng sát hình chư diệu, tất dẫn đến đam mê nhạc dật, phóng túng trụy lạc.


------------------------------

------------------------------
Đã đọc : 7986 lần

Liên hệ tư vấn

hỗ trợ trực tuyến

CHÚ Ý: AVS KHÔNG TƯ VẤN QUA CHAT

tư vấn qua điện thoại (3.000 đồng/phút): 1900 68 50 hoặc (04)1088 - 1 - 7

tư vấn trực tiếp: 2/15, phố Đào Duy Từ, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội

Lĩnh vực tư vấn:

- tư vấn tâm lý tình cảm, hôn nhân, gia đình

- tư vấn nuôi dạy trẻ

- tư vấn sức khỏe tình dục: xuất tinh sớm, lãnh cảm, nghệ thuật phòng the, bệnh tình dục....

- tư vấn sức khỏe sinh sản, giới tính

- tư vấn trị liệu tâm lý

- Các vấn đề tâm lý khác như ly hôn, stress

Gọi -1900 68 50 để đặt lich tư vấn trực tiếp

Biểu giá tư vấn tại đây

Khách hàng tư vấn trực tuyến xem hướng dẫn tư vấn tại đây