Một loại thuốc mà hàng triệu phụ nữ mang thai đã dùng từ nhiều thập kỷ trước để ngăn ngừa sẩy thai và các biến chứng lại có thể khiến đứa con của họ đối mặt với bệnh ung thư.
Nhiều phụ nữ, bây giờ đã ở độ tuổi 40, có thể thậm chí không biết rủi ro của họ nếu các bà mẹ không bao giờ nhận ra hoặc nói với con mình rằng họ đã sử dụng một estrogen tổng hợp gọi là DES. Nghiên cứu mới cho thấy rằng nguy cơ ung thư vú tăng gần gấp đôi ở những phụ nữ có mẹ dùng DES.
Con trai của những phụ nữ sử dụng DES cũng phải đối mặt với nguy cơ sức khỏe - vấn đề về tinh hoàn và u nang, nhưng dường như những nguy cơ này không phổ biến nên phái mạnh không cần quá lo lắng. Trong khi đó, ở nữ giới, ảnh hưởng của DES có dấu hiệu di truyền đến thế hệ thứ 3. Một số nghiên cứu cho thấy hậu quả tới những cô cháu gái của họ là kinh nguyệt không đều và xuất hiện các dấu hiệu liên quan đến giảm khả năng sinh sản.
DES, hoặc diethylstilbestrol, được sử dụng rộng rãi ở Hoa Kỳ, Châu Âu và các nơi khác từ những năm 1940 đến năm 1960 để ngăn ngừa sẩy thai, sinh non, chảy máu và các vấn đề khác. Nhiều công ty và nó ở dạng thuốc viên, kem bôi hoặc các dạng khác. Các nghiên cứu sau đó cho thấy nó đã không có hiệu quả trong việc ngừa sẩy thai. Chính phủ ra lệnh ngừng sử dụng trong năm 1971, sau khi con gái của những người dùng DES được phát hiện có nguy cơ cao của một dạng ung thư âm đạo. Các nghiên cứu đã gắn liền DES với bệnh vô sinh và các vấn đề khác về khả năng mang thai.
Nghiên cứu bắt đầu vào năm 1992 gồm 4.600 phụ nữ có mẹ từng dùng DES và một nhóm 1.900 phụ nữ có mẹ đã không được sử dụng DES. Trong nghiên cứu, các nhà khoa học tìm thấy các số liệu về tỉ lệ mắc bệnh giữa nhóm 1 và 2 như sau:
-Ung thư vú ở nhóm 1 là 3,9% , nhóm 2 là 2,2%.
-Vô sinh, nhóm 1 là 33,3% so với 15,5% của nhóm 2.
-Sinh non ở nhóm 1 là 53,3% so với 17,8% ở nhóm 2.
-Sẩy thai ở nhóm 1 cao tới 50,3% so với nhóm 2 chỉ 38,6%.
-Thai chết lưu, 8.9% so với 2,6%.
-Tiền sản giật 26,4% so với 13,7%.