Sao giải trong Tử vi: Thiên quan - Thiên phúc

THIÊN QUAN (Hỏa) THIÊN PHÚC (Hỏa)

Thiên Quan Thiên Phúc nhắc nhở ta rằng đời này không phải chỉ có thắng thua; mà còn có những giá trị khác, như sự hy sinh vì tha nhân chẳng hạn.

Thường thì ít khi hai lực lượng này chạm trán. Nhưng khi chạm trán rồi tất gây mâu thuẫn, vì tất cả đều phải thể hiện ra trong một người.

Cần hiểu rõ ý nghĩa Quan Phúc. Quan Phúc ứng với sự kềm chế bản năng. Bản năng chế ngự được thì được thưởng, không chế ngự được thì phải sao đây? Dĩ nhiên phải chịu hậu quả xấu, bằng không thì còn gì là lẽ bù trừ của thuyết âm dương nữa?

Nhưng chế ngự là gì? Thí dụ dễ hiểu: Thấy cái bánh ngon trước mắt mà kềm lại không ăn, đó là chế ngự. Thấy sắc, lòng xốn xang mà không vọng động, đó là chế ngự.

Muốn chế ngự bản năng thường phải có nghị lực cao. Bởi vậy (theo tôi) có một cách tiên quyết để xem Quan Phúc tốt hay xấu: Xét mệnh có vững hay không.

Nhớ rằng "tốt hay xấu" đây là nghĩa bình thường của cuộc đời. Chứ xét trên lý nhà phật thì y như nhau, đều là thử thách, tức là đều tốt đẹp cả. Cái tên Quan Phúc vì thế không sai nếu không muốn nói là có ý nghĩa hết sức thâm sâu.

(Một cách khác để hiểu là so sánh Quan Phúc với quan cách của khoa bát tự. Mệnh cường quan cách hiển vinh, mệnh nhược quan là tai họa.)

Theo thiển ý, Quan Phúc chỉ có nghĩa giản dị là dính líu đến tính "tu hành". Người tu hành không đòi hỏi sự công bình, mà phải chịu phần lỗ thay cho thiên hạ.

Nhưng như vậy cao cả quá, khó thực hiện. Thực tế hơn, tôi cho rằng cung nào có Phúc, có Quan thì mọi việc dính líu đến cung ấy đừng nên đòi hỏi sự công bằng. Làm được thế là sống đúng số, và góp phần vào việc "nhân định thắng thiên".

Thí dụ: Cung nô có Phúc. Bạn bè hay lợi dụng ta. Vậy là ta lỗ lã. Ta bực mình, bèn lợi dụng lại bạn bè cho huề, vậy là ta đòi lẽ công bình, nên chưa sống đúng với đòi hỏi của Phúc ở đây.

Lại thí dụ, cũng là nô có Phúc. Bạn bè không lợi dụng ta. Nhưng có một người bạn vào hoàn cảnh rất kẹt. Ta giúp thì chính ta cũng lâm vào cảnh khó khăn. Vậy ta chọn đường nào? Đây là thử thách mà trời đặt ra cho ta đó.

Tuy nhiên lại có một trường phái cho rằng Quan Phúc không phải bao giờ cũng có ý nghĩa tốt đẹp như thế. Có rất nhiều bậc chân tu có Quan Phúc cư tại mệnh hoặc thân. Người ta thống kê được nhiều lá số của phường bất lương du đãng cũng có Q-P ở mệnh thân. Bậc chân tu và phương bất lương giống nhau ở chỗ cuộc đời họ có những thử thách mà người thường không gặp phải. Bắt họ phải chọn 1 trong nhiều con đường. Theo ý nghĩa "ma quân là bạn đạo" của nha Phật - thử thách là cơ hội cho người ta phát triển Phật tính. Còn theo những kẻ xung động, ích kỷ thì phản ứng lại bằng bản năng thú tính.

Vậy ra Quan Phúc không hẳn là các sao cứu khốn phò nguy mà còn là dấu hiệu cảnh báo rằng đó là nơi có nhiều khó khăn thử thách. Người đáp lại bằng cái nhân tu hành, làm thiện, có lòng nhân từ thì sẽ được hưởng quả phúc về sau. Còn kẻ gieo ích kỷ, đòi thắng đời, thắng người thì sẽ nhận được quả đắng. Hoạ phúc cứ thế mà giáng xuống.

1. Ý nghĩa của thiên quan, thiên phúc: Cả 2 đều là phúc tinh và đồng nghĩa với nhau:

a. Về tính tình: - có thiện tâm, nhân hậu, hiền lành, đức độ, hay làm việc thiện, hay cứu giúp người - có tín ngưỡng, tin tưởng nơi Phật Trời, nhân quả - có khiếu đi tu, có thể đắc quả Hai sao này giống nghĩa với Tứ Đức và Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần

b. Về phúc thọ: - chủ sự cứu giải tai họa, giảm bớt hung nguy - giảm bệnh tật - tăng phúc thọ do việc tu nhân tích đức, giúp người, người giúp

2. Ý nghĩa của thiên quan, thiên phúc và một số sao khác: - Thiên Tướng, Riêu, Y và Thiên Quan, Thiên Phúc: bác sĩ rất mát tay, lương y chữa bệnh giỏi

- Cơ Nguyệt Đồng Lương, Thiên Quan, Thiên Phúc: lương y, người hảo tâm, phúc thiện, hay làm công tác xã hội.

- Tử, Tham đồng cung: đi tu, cứu độ được nhiều người.

3. Ý nghĩa của thiên quan, thiên phúc ở các cung: Đóng ở bất luận cung nào, 2 sao này đều mang lại sự lành, sự thiện cho các cung đó. Tốt nhất là ở cung Mệnh, Thân, Phúc, Di, Tật.

a. ở Quan hay Di, Mệnh: Hay giúp đỡ người khác và được nhiều kẻ khác giúp đỡ.

b. ở Tài: Hay dùng tiền bố thí, cúng đường, sử dụng tiền bạc vào mục đích lương thiện, xã hội.

c. ở Điền: Có khi hiến điền, nhà cửa cho việc nghĩa.

d. ở Hạn: Được nâng đỡ, giúp đỡ trong công danh, tiền bạc.

Một số độc giả hẳn biết Quan Phúc không có mặt trong những sao nguyên thủy của khoa tử vi mà được thêm vào sau này. Nên không có gì đáng ngạc nhiên là ý nghĩa truyền thống của Quan Phúc được lấy thẳng từ các khoa mệnh lý dựa trên ngũ hành (gọi chung là các khoa ngũ tinh) đã sử dụng hai sao này trước Tử Vi. Nhưng nếu, trong khoa Tử Vi, Quan Phúc quả có vai trò cứu khổn phò nguy quan trọng nhý trong các khoa ngũ tinh thì tại sao người nghĩ ra Tử Vi lại bỏ sót chúng?

Dĩ nhiên ta có thể lập luận rằng nhân vô thập toàn nên chuyện thiếu sót đã xảy ra, nhưng lý luận này không ổn, vì Tử Vi là một cuộc cách mạng chống lại các khoa ngũ tinh. Muốn hoàn thành cuộc cách mạng này, người khởi xướng khoa Tử Vi chắc chắn phải là một bậc thầy của các khoa ngũ tinh. Cách giải thích hợp lý hõn là Quan Phúc đã bị liệt vào hàng ngũ vô số các thần sát khác mà người sáng lập khoa Tử Vi đã quyết định bỏ ra ngoài khoa học mới này.

Nhưng nếu vậy thì tại sao cách xem Quan Phúc có vẻ đúng (một thí dụ hiển nhiên là rất nhiều bậc chân tu có Phúc cư mệnh hoặc thân). Thắc mắc này theo đuổi người viết nhiều năm. May thay, trong thời gian ở Á châu người viết có cơ hội thấy nhiều lá số có thật của các phường bất lưõng du đãng.

Điểm lạ lùng là đa số (trên 50%) các lá số này có Phúc ở một trong ba cường cung Mệnh Phúc Thân; tức là khác đám đông một cách rõ ràng nhưng lại giống các bậc chân tu hoặc những người sống đời hy sinh vì nhân quần xã hội.

Các bậc chân tu và những phường bất lương du đãng giống nhau ở chỗ đời họ có những thử thách mà người thường ít gặp phải. Thử thách là những hoàn cảnh cực đoan, bắt buộc con người phải chọn một trong hai hoặc ba bốn con đường.

Theo ý nghĩa ma quân là bạn đạo của nhà Phật, thử thách là cơ hội cho người ta phát triển phật tính. Nhưng kẻ xung động, ích kỷ sẽ phản ứng lại thử thách bằng bản năng hoặc thú tính. Người viết giật mình mới hiểu ra rằng Quan Phúc không phải là hai sao cứu khổn phò nguy, mà là hai dấu hiệu, hai bảng cảnh cáo được thêm vào lá số cho người xem biết đâu là phương có nhiều khó khăn, thử thách.

Người đáp lại thử thách bằng cái nhân tu hành tất nhiên được hưởng quả phúc về sau. Kẻ đáp lại thử thách bằng cách gieo cái nhân ích kỷ tất nhiên sau này phải ãn quả đắng.

Tóm lại, phương nào có Quan Phúc, phương đó có khó khăn thử thách bắt người ta phải chọn lựa giữa thắng và thua. Người có lòng nhân từ sẽ chọn đường thua thiệt. Kẻ có tâm ích kỷ sẽ đòi thắng đời thắng người.

Họa và Phúc từ đó mà ra chứ chẳng phải vì hai ông thần Quan Phúc từ cao giáng xuống cuộc đời.

Góp ý của Dương Lương

Theo cách an của Thiên Quan và Thiên Phúc (theo hàng Can) thì hai sao này thường xuyên có sự liên hệ với Kình Đà (tam hợp, đồng cung hoặc xung chiếu Kình Đà) – ngoại trừ tuổi Mậu.

Như vậy theo bác VDTT, nhiều lá số có Quan Phúc lại thành phường bất lương du đãng hẳn có lý của nó. Nếu Quan Phúc nằm trong ba cường cung Mệnh Phúc Thân thì có đến 90% Mệnh cung lá số đó bị ảnh hưởng bởi Kình Đà. Nếu có thêm sát tinh hội họp hoặc Quan Phúc ko hội tụ đủ để cứu giải thì các lá số đó có nhiều khả năng biến thành du đãng khi Kình Đà tác hoại.

“Thiên Nguyệt Đức, Giải Thần tàng,

Cùng là Quan Phúc một làng trừ hung”

Quan Phúc ở đây có vai trò để cứu giải Kình Đà cũng như Thiên Nguyệt Đức ra sức lái đương số tránh khỏi Thiên Không. Có cứu được không cũng là tuỳ đương số và tuỳ cách cục kết hợp với các bộ sao khác.

Phú về Quan Phúc có một câu đáng lưu tâm:

“Sao Quan, Phúc cùng Khôi Tinh,

Lâm chung Thân Mệnh đề danh bảng rồng”

Tức là Quan Phúc đi với Khôi Việt dễ đỗ đạt cao, tiếng tăm.

Ở đây có lẽ Khôi Việt đã cải hoá bộ Kình Đà làm cho sức văn trong bộ này phát huy tác dụng đạt đến đỉnh cao. Như các lá số của tác giả kiếm hiệp Kim Dung và Nguyễn Du có thể hiện cách này.

Ý NGHĨA “TU HÀNH” CỦA QUAN PHÚC

Cách xem Quan Phúc sau đây hoàn toàn do tôi nghĩ ra, không theo sách vở nào cả, nhưng đã có khá nhiều chứng nghiệm, hy vọng chính là ý nghĩa đã thất truyền của hai sao này.

1. Tiên quyết: Phúc là chính, Quan là phụ. Phương của Phúc là nơi có những biến cố khiến ta phải chọn lựa, và phương của Quan thường giúp ta thấy ý nghĩa của biến cố này rõ ràng hơn. (Nếu tin cách này đúng rồi thì cũng có thể dùng cái lý của nó để chọn giờ sinh cho lá số trong một số trường hợp).

2. Sự chọn lựa ở phương có Phúc thường khá rõ ràng: Chọn một đường ta lỗ, chọn đường khác ta lợi hơn, hoặc hòa. Khuynh hướng bình thường dĩ nhiên là nên chọn đường thứ hai, nhưng muốn sống đúng theo cái lý của Quan Phúc thì phải chọn đường thứ nhất. Chọn đường thứ nhất tức là đã thực hiện ý nghĩa chân thật của sự “tu hành” (chịu lỗ lã dùm cho đời), bởi vậy mới nói phương của Quan Phúc là phương của tu hành.

Theo tôi mọi sự đều có nhân quả, sự lựa chọn của ta trong việc ứng với phương của Quan Phúc là nhân, rồi một lúc sẽ biến thành quả. Hai người có lá số y hệt có thể lựa chọn khác nhau, đây là một lý do khiến ta không thể dùng lá số Tử Vi khẳng quyết đời sống của người ta phải thế này thế nọ, mà phải xem họ ứng xử như thế nào nữa.

Phải có thử thách mới có đòi hỏi tu hành, nên phương của Phúc là phương của thử thách. Nhìn một lá số, thấy Phúc ở đâu, xác quyết ngay phương thử thách (theo ý nghĩa “tu hành”) ở đó.

Ý nghĩa tu hành của Quan Phúc rất giản dị. Khi có sự chọn lựa cứ chọn đường lỗ cho mình lợi cho người hoặc cho cuộc đời.

Người Việt ta có câu “tu là cội PHÚC, tình là giây oan”, có lẽ cái lý bao hàm trong câu này là nguồn gốc của tên sao Thiên Phúc.

Phúc ở Tử tức phải “Tu hành” thế nào?

Tử tức tại sao là cung đào hoa thì tôi sẽ không giải thích, vì nó là kết quả của một cách xem hơi lạ, thường gọi là phép hoán cung; có thể nói đây là một bí quyết to của làng tử vi Đài Loan đấy, nhưng nó không phải là bi quyết riêng của họ, vì 25 năm trước tôi đã gặp một ông thầy mù người Việt Nam xem theo cách này.

Thế nào là thử thách “đào hoa” vì có Phúc ở Tử Tức? Thí dụ thực tế là một người đàn ông đã có vợ con nhưng rất hợp tính với ta, và ta thấy người ấy rất “đàn ông”, “khí phách”, “hấp dẫn” … Người ấy một ngày theo đuổi, rõ ràng muốn ngoại tình với ta. Ta biết người ấy không có ý muốn bỏ vợ lấy ta, ta cũng biết ngoại tình là sai, nhưng ta biết rằng nếu từ chối sự tiến tới của người ấy thì từ đó trở đi liên hệ hai bên sẽ sứt mẻ, và ta không bao giờ được có những giờ phút vui vẻ bên cạnh người ấy nữa. Ngược lại, nếu ta ngoại tình với người ấy thì (theo sự suy nghĩ của ta) ta có những phút giây hạnh phúc (dù ngắn ngủi) mà không hại ai, vì đằng nào thì người ấy cũng không bỏ vợ lấy ta. Vậy ta phải làm gì?

Đây chính là một thí dụ về một đòi hỏi chọn lựa có tính “đào hoa” ứng với Thiên Phúc ở tử tức.

Thông thường hơn, khi Quan Phúc không hỗ trợ nhau ở thế tam hợp thì tôi cho rằng Phúc chỉ có ý nghĩa “tu hành” ở cung nó đóng. Thiên Phúc ở tử tức có nghĩa con cái sẽ là thử thách lớn của đời ta. Theo nghĩa thông thường thì phải luận là cung tử tức không tốt, nhưng theo nghĩa nhà Phật thì tử tức là cơ hội tu hành của ta. Như vừa sinh ra con đã tàn tật, ta có thương nó như những đứa con khác không? Như con gái ta mười mấy tuổi bỏ nhà theo trai, ta sẽ ứng xử thế nào? Có mở rộng vòng tay nhận nó trở về không? Có thương yêu bảo bọc nó như cũ không …

Hỏi

Trong ví dụ trên về ngoại tình hay không ngoại tình của bác thì cách nào là cách tu? Theo Tđ thấy lựa cách nào cũng bị thua cả.

VDTT trả lời

Cách nào ít gây hại cho cuộc đời hơn hết. Trong trường hợp trên phải dứt mà đi.

Thường thường dùng các quy luật mà nhà Phật đã xử dụng thì ít khi sai.

Thí dụ 1: Chồng ta ngoại tình. Ta có nhiều đường để chọn, trong đó gồm có:

• Tạt át xít cho chồng ta sống dở chết dở ở một đầu cực đoan và hoàn toàn tha thứ cho chồng ta ở một đầu cực đoan khác.

• “Hơi hơi” tha thứ (tức là cũng mắng chửi lung tung rồi đuổi ra khỏi phòng mấy ngày hoặc mấy tháng) có lẽ là đáp án vừa tu hành vừa thực tế.

Thí dụ 2: Ta có cơ hội ngoại tình “Một lần rồi thôi”, hai bên sẽ chẳng bao giờ gặp lại nhau, kín miệng thì muôn đời chẳng ai biết, chồng ta dù ba đầu sáu tay cũng chẳng thể nào khám phá ra.

Giải pháp phù hợp: Đừng ngoại tình (vì có trời biết đất biết, vả lại “muốn người ta không biết thì mình đừng có làm”).

Thiên Phúc cư Nô ý nghĩa gì?

Thiên Phúc cư nô có nghĩa trong đời sẽ có tối thiểu một lần nào đó ta phải có một chọn lựa quan trọng ảnh hưởng đến một người quen biết của ta, người ấy có thể là tình nhân, có thể là bạn đồng sự, có thể là nhân viên, có thể là xếp của ta. Đây sẽ là lúc trời đất thử thách trình độ tu hành của ta ứng với Phúc ở nô. Nhắc lại, chịu lỗ lã mới là tu hành, không chịu lỗ lã (bất cứ vì lý do gì) đều là đi ngược lại đòi hỏi tu hành của Quan Phúc.

Nhưng Phúc ở nô không có nghĩa là không nên lập gia đình, có khi phải lập gia đình (với sư tử Hà Đông hoặc kẻ vũ phu) mới đúng là tu hành đấy chứ! Tóm lại phải tùy hoàn cảnh đặc thù mà luận xét

Quan Phúc ở cung Tật

Tật xung chiếu phụ mẫu nên đầu tiên phải tự xét xem liên hệ với phụ mẫu ra sao. Nếu không có vấn đề gì cả thì chú trọng vấn đề sức khỏe và tâm lý của bản thân mình.

Khi lớn tuổi coi chừng nhiều tật bệnh hơn người thường (hoặc phát triển tâm lý bất bình thường), nên đừng phí phạm sức khỏe khi còn trẻ.

Thiên Phúc cư Phúc cung, ý nghĩ tu hành ra sao ? – Trích dẫn Van Helsing

Cuộc đời sẽ bầy ra cho ta những “thử thách” khi thì lên voi, hưởng vinh hoa phú quý tiền tài, lúc thì xuống chó, bầm dập nát tan. “Tu hành” của Thiên Phúc nghĩa là sao ? Khi ta đang trên đỉnh cao của vinh hoa phú quý, ta có tham đắm nó không, có cho nó là thực tại muôn đời hay không, có cho nó là do tài năng của ta tạo nên hay không, ta có tiếp tục lao vào con đường mưu tìm lợi ích cho riêng bản thân, tiếp tục tích luỹ của cài tiền bạc để duy trì cái sự sung sướng đó cho bản thân và gia đình ta hay không. Hay khi đem của cải tiền bạc ra bố thí có thực sự là muốn chia sẻ, bố thí với những người khổ sở hơn ta hay không, có thực lòng hay không hay chỉ là tích luỹ cho cái danh tiếng của ta.

Và khi rơi xuống lưng chó ta có hằn học, oán thù cuộc đời là bạc bẽo với ta không, có tìm cách trả thù đời không. Và nếu có nhận ra tất cả chỉ là hư ảo, thì có thật sự “sống” với cái hiểu biết đó hay không, hay chỉ là nói “cuộc đời là hư ảo” ở chót lưỡi đầu môi.

Thiên Phúc cư Phúc cung ý nghĩ tu hành là cuộc đời sẽ bầy ra cho ta thật nhiều “thử thách” : Vinh hoa phú quý = trợ duyên ; bầm dập, tan nát = nghịch duyên. Nếu thực sự nhận ra dù trợ duyên hay nghịch duyên cũng đều là hư vọng thì sẽ hưởng được cái PHÚC của trời.

Phúc cư phúc thì phải giữ mồm giữ miệng, kẻo dễ bị vạ miệng

Có hậu quả gì nếu không chịu “tu”?

Theo tôi đặc điểm của Quan Phúc là kết quả hoặc hậu quả có tính “quả báo nhãn tiền” (xem thêm phần cuối). Nhưng hậu quả thế nào khó biết vì có thể hiện ra ở nơi khác. Chẳng hạn ngoại tình (không thỏa điều kiện “tu hành” của Quan Phúc) thì rất có thể chồng ta vẫn không bỏ ta, nhưng con cái không nghe lời ta nữa mặc dù chúng không hề biết mẹ chúng ngoại tình. Chẳng hạn, cũng là ta ngoại tình khi hoàn cảnh cho phép (không “tu” theo Quan Phúc), sau đó ta sạt nghiệp trong một hoàn cảnh khó giải thích.

Cần phân biệt Quan Phúc với tác dụng tổng quát hơn của việc tu hành. Người sống theo Quan Phúc không phải là tu hành toàn diện mà là hành xử đúng theo đòi hỏi “tu hành” trong những sự việc liên hệ đến Quan Phúc mà thôi.

Có thể nhìn Quan Phúc là đòi hỏi tu hành có tính “quả báo nhãn tiền”. Nếu không “tu” theo Quan Phúc hậu quả xảy ra ngay trong đời này không phải đợi đến kiếp sau.

Như ta có Phúc trong Phu thê. Ta có thể bất hiếu, ức hiếp anh chị em trong nhà mà không thấy hậu quả gì cả (trong kiếp này thôi, và giả sử lá số tốt), nhưng ta không nhường nhịn vợ hoặc chồng ta thì có hậu quả ngay trong đời này.

Trích dẫn bài viết của KK Minh Tâm

Quan Phúc ở các cung:

Mệnh: là người thích làm phúc, bố thí cúng dường, trọng nghĩa khinh tài. Dù gặp Sát Tinh cũng vẫn cứ tốt! Gặp Không Kiếp cũng không thể phá hại được. Người có căn tu trong nhiều đời kiếp, mọi việc xấu tốt sắp tới có giác quan thứ 6 linh cảm biết trước. Hoặc ở Mệnh, nếu đương số chí thành mở miệng kêu trời cứu thì sẽ có trời CHE, nếu kêu đất cứu thì sẽ có đất CHỠ, những người này cầu nguyện sẽ có thần linh đến chứng dám, cứu giúp. Nếu chí nguyện tu hành, thì sẽ có Long Thần Hộ Pháp đến che chỡ đỡ đần

Phụ Mẫu: nếu họ khá giả thì họ sẽ lo cho cha mẹ, nếu họ nghèo khổ thì được cha mẹ lo, và luôn được hưởng phúc lộc do cha mẹ để lại bằng Âm Đức hay Dương Đức.

Phúc: Có Duyên với Tổ Nghiệp, hoặc trong dòng họ đời trước có tu bồi nhân lành lớn, hoặc có người tu hành chuyển nghiệp cho dòng họ… Hoặc dù mồ mã hay trong dòng họ có gặp xấu cũng gặp chân sư cứu giúp giải trừ hay chuyển đối…

Điền: thì có người để gia tài lại cho giống như Quang Quý. Đồng thời có thể đứng ra thành lập những cơ quan từ thiện, tuỳ theo nhiều ít, tuy theo cùng điền tốt xấu. Của cải vật chất họ có thể cho người không luyến tiếc. Ai xin nếu họ có thể cho thì cho ngay, bất kể vật đó quý giá đến đâu. (Đây là loại người Thí Vô Uý. Tại sao lại gọi là thua lỗ?).

Nô: có Duyên chơi được với bạn bè tốt hoặc các bạn đồng tu, hoặc các tiên nhân (không phải mấy ông tiên đánh cờ hay nhậu nhẹt đâu nhé), hoặc được cơ hội học hỏi các bậc chân tu đắc đạo…

Di: Ra đường gặp quý nhân giúp đỡ, dễ gặp cơ may đến những nơi an lành, thường gặp thuận lợi tốt đẹp… nói chung ra đường dễ gặp thiên thời địa lợi nhân hòa.

Tật: gặp nạn thường có quý nhân hay thần linh che chỡ. Dĩ nhiên, ở cung Tật thì không bằng cung Mệnh, vì lỡ Mệnh xấu hay Vận xấu có thể chết yểu như thường.

Tài: Có thể cho tiền của hoặc đôi khi ngay cả gia tài sự nghiệp để làm từ thiện. Những người dám bố thí những mãnh đất công viên, thư viện… phải có Quan Phúc trong Mệnh Thân và Tài Điền hoặc xung hoặc giáp hợp. Đây là loại người Thí Vô Uý. (Thiết tưởng người có tiền cho như vậy sao gọi là thua lỗ về tài được).

Tử Tức: Nếu cung Tử Tức xấu xa, có Quan Phúc thì nuôi con nuôi sẽ có con (đây gọi là làm phúc để được phúc), hoặc chẳng cần phải xin con nuôi, chỉ cần chí thành cầu đảo như ăn chay nằm đất hay tụng Kinh trì Chú… thì nhất định sẽ có con (vì người có Nhân Duyên từ những đời trước sẽ đầu thai đến làm con). Nếu cung Tử đẹp thì con là thần nhân giáng thế. Khác hơn Ân Quang Thiên Quý vì đối với Quang Quý nếu cung Tử xấu xa, thì cho dù là con nuôi hay con ruột vẫn trở thành phá gia chi tử như thường.

Huynh Đệ: nếu họ khá hơn anh chị em thì họ sẽ lo cho Huynh Đệ, nếu họ nghèo khổ thì sẽ được anh chị em giúp đỡ. Và được giúp đỡ tận tình vô điều kiện.

Ý vô tận ngôn, mong quý vị tự nghiền ngẫm và triển khai, hiểu ý thì mong hãy quên lơi, chớ nên chấp chặt vào Văn Tự, mặt chữ.

Thiên Quan quí nhân

Quan có nghĩa là chức quan (mỗi người giữ một việc gì để trị nước gọi là quan), ngôi quan (chỗ ngồi làm việc ở trong triều đình gọi là quan) hoặc là cái mũ

Thiên Phúc quí nhân

Phúc có nghĩa là sự tốt lành (Kinh Thi chia ra năm phúc: (1) Giàu (2) Yên lành (3) Thọ (4) Có đức tốt (5) Vui hết tuổi trời). Còn có nghĩa là giúp, tấm lòng, sự đùm bọc.

Theo VVT thì Thiên Quan là thần của Trời, Thiên Phúc là thần của Đất, chuyên ban phúc

Ngũ hành

Thiên Quan Quí Nhân hành Dương Hỏa

Thiên Phúc Quí Nhân hành Âm Thổ (LQT, VVT cho rằng hành Hỏa)

Kết hợp đủ bộ

Chỉ có bốn tuổi Ất, Mậu, Tân, Quí mới có đủ bộ

Quan Phúc: tuổi Mậu thì đồng cung (tại Mão), tuổi Ất, Tân, Quí thì tam hợp với nhau (Ất: Thìn - Thân, Tân: Tỵ - Dậu, Quí: Ngọ - Tuất), riêng tuổi Đinh thì có cách nhị hợp tại Dần - Hợi và tuổi Giáp thì có cách giáp Quan Phúc tại cung Thân (Mùi - Dậu)

Quan Phúc có đặc điểm là ngoại trừ tuổi Mậu và Thiên Phúc cho tuổi Canh, các tuổi khác thì sẽ kết hợp với Kình, Đà (hoặc cả hai) hay Lộc Tồn

Khi xét Quan Phúc thì cần xét trong mối quan hệ với các sao an theo năm, đặc biệt là có Khôi Việt hoặc Hao không. Có Khôi Việt thì gia tăng văn cách, có Hao thì chủ thay đổi hoặc hao tán

Ý nghĩa

Đây là hai phúc thiện tinh, chủ cứu khổn phò nguy, chủ gia tăng phúc thọ, giải trừ bệnh tật tai họa, hung nguy, đi với ác sát tinh không có hại, cư tại cung nào cũng chế khắc giải trừ bớt tai nạn họa hại, hội với sao nào cũng tốt cả. Hai sao này đóng đâu thì đem lại sự lành, sự thiện, là cứu khổ cứu nạn ở đó, gặp hạn xấu thì có thánh thần hoặc ân nhân giúp đỡ, tọa thủ tại Mệnh, Thân, Phúc, Thiên Di, Tật Ách rất hợp. Phú có câu:

Thiên Nguyệt Đức, Giải Thần tàng (có Giải Thần),

Cùng là Quan Phúc một làng trừ hung

(Thiên Đức, Nguyệt Đức, Giải Thần, Thiên Quan, Thiên Phúc đều là các sao giải họa)

hoặc:

Quí nhân bất nhập Quí hương nan giải hung tinh chi hoạch nhiễu (17)

(Mệnh Thân có hung tinh quấy nhiễu nếu không có Thiên Quan, Thiên Phúc quí nhân hội họp tất không giải trừ được tai ương họa hại)

Tọa thủ tại Mệnh thì:

Nhân hậu, từ thiện, hiền lành, khoan hòa, hay làm việc thiện, hay giúp đỡ người, là người tu nhân tích đức

Có phật tính, có lòng hảo tâm, thiện ý, thương xót người, có đạo đức rất lớn, có đức độ

Có tín ngưỡng, tôn giáo, tin tưởng vào Phật Trời, nhân quả, dễ có khuynh hướng đi tu hoặc nghiêng về đạo giáo

Do hay giúp người nên cũng thường được người giúp lại

Có danh vị, nếu chiếu Thân Mệnh thì đỗ cao (TQT)

Thiên Quan, Thiên Phúc thủ trung,

Tôn tăng (tôn kính tăng sĩ), kính Phật, dốc lòng thiện gia

Thiên Quan, Thiên Phúc tu hành,

Tứ Sát vượng địa đã đành minh huy

Các bộ sao kết hợp

Quan Phúc đi với Khôi Việt thì rất có lợi cho công danh thi cử

Sao Quan, Phúc cùng Khôi Tinh, lâm chung Thân Mệnh đề danh bảng rồng (10)

(Mệnh Thân có Khôi Việt tọa thủ gặp Thiên Quan, Thiên Phúc thì thi đỗ cao)

Thiên Phúc gặp Tả Hữu thì làm về nghề thầy thuốc rất có ích, rất nổi tiếng, cứu giúp được nhiều người (Tả Hữu)

Phụ Bật Thiên Phúc đồng viên (đồng cung), ngôi cao chính viện, danh truyền y quan (9)

Tả Hữu Quan Phúc đồng sàn. Chính tinh đắc địa rõ ràng lương y

Phụ Bật Thiên Phúc nhàn cung. Ngôi cao chính viện, danh truyền y sư (VVT)

Phụ, Bật Thiên Phúc kia là. Chức quan tư viện ấm nhà y lâm (B108)

Hầu hết các tác giả đều đồng ý là như vậy ngoại trừ Quản Xuân Thịnh viết khác một chút:

Phụ Bật Khúc Tướng đồng viên. Ngôi cao chính viện, danh truyền y quan (QXT)

Thiên Quan rất hợp với Thiên Tướng tại cung Quan Lộc, chủ vinh hiển

Tự nhiên nên hiển vinh ghê,

Thiên Quan Thiên Tướng ở về cung Quan (vinh hiển) (B114)

Nhưng nếu Thiên Quan gặp Thiên Tướng, Tấu Thư và hung tinh hội họp tại Mệnh thì có quan điểm cho rằng chỉ là thầy phù thủy hoặc là thầy tu

Quan (Thiên Quan) phùng Tướng (Thiên Tướng) Tấu (Tấu Thư) nghề chi, Mệnh hung tà đạo tăng ni kẻo nào (24)

Quan điểm này cần phải kiểm tra lại trong thực tế vì có nhiều câu phú khác nhau về vấn đề này như:

Quan phùng Tướng Tấu nghề chi, Mệnh phùng tả đạo tăng ni kẻo nào

hoặc:

Quan Phù, Tấu, Tướng nghề chi, Mệnh phùng Tả Hữu tăng ni kẻo nào (QXT)

Quản Xuân Thịnh thì cho rằng Thiên Phúc gặp Thiên Cơ, Hồng Loan, Tang Môn thì khéo léo về may mặc:

Khéo nghề kim chỉ vá may,

Cơ, Tang, Hồng, Phúc ở rầy Mệnh cung (QXT)

nhưng cần xét lại câu phú trên, vì cũng có câu phú cho rằng:

Khéo nghề kim chỉ vá may,

Hồng Đào Tấu Vũ ở đầy Mệnh cung (NMB, VT)

Tử Tham Quan Phúc đồng cung: đi tu, cứu được nhiều người (VVT)

Cơ Nguyệt Đồng Lương, Quan, Phúc: lương y, là người hảo tâm, hay làm công tác xã hội (VVT)

Thiên Tướng Riêu Y Quan, Phúc: lương y chữa bệnh rất giỏi, bác sĩ rất giỏi (VVT)

Quan hay Phúc gặp Hình Kỵ hoặc Thiên Đồng hãm địa tại Nữ Mệnh: có lòng từ thiện nhưng hay thay đổi tính tình, ưa thích đồng bóng (VVT)

Quan Phúc tại các cung:

Giải trừ tai nạn họa hại do các ác sát tinh gây ra, gia tăng phúc thọ

Quan, Di, Mệnh: hay giúp đỡ người và được nhiều người giúp đỡ

Phúc Đức

Quan, Phúc: nhà có phúc lớn, mồ mả tiền nhân chôn gần chùa (TQT)

Thiên Quan: đất đại quí (NMB)

Thiên Quan gặp Xương Khúc Khôi Việt, Khoa Quyền Lộc: văn khôi, cao sĩ (NMB)

Thiên Quan, Tham, Phá, Vũ: võ cách đến bậc công hầu (NMB)

Thiên Quan, Tuần, Triệt, Hoa Cái, Tấu Thư: xướng ca có tiếng tăm (NMB)

Thiên Quan, Đà, Kỵ, Riêu, Kiếp: bị tàn tật, hôn mê, ngu xuẩn (NMB)

Thiên Phúc: cuộc đất rất đẹp (NMB)

Thiên Phúc, Tử Phủ, Hồng Đào: trai làm phò mã, gái làm cung phi (NMB)

Thiên Phúc, Phá, Đà, Riêu, Kỵ, Tuần Triệt: là hung địa, trai làm đạo sĩ, ly tổ, phiêu lưu (NMB)

Điền

Có khi hiến tài sản cho việc nghĩa (VVT)

Tật Ách

Giảm trừ bệnh tật, tai nạn họa hại, bị bệnh có khả năng gặp thầy thuốc hay hoặc có người giúp đỡ

Tài

Hay dùng tiền bố thí, cúng dường, sử dụng tiền bạc vào mục đích lương thiện, xã hội (VVT)

Tử Tức

Có khả năng giải được cách hiếm muộn do Cô Quả gây ra

Thái Âm gặp Thiên Phúc tại cung Tử Tức thì đẻ con sinh đôi

Âm Dương sánh với Hỉ tinh (Thiên Hỉ),

Âm cùng với Phúc cũng sinh dị bào (B42)

NMB giải rằng Thái Âm Thái Dương gặp Thiên Hỉ ở Âm cung ở vào cung phúc cũng có anh chị em khác cha khác mẹ không hợp lý

Quản Xuân Thịnh thì ghi hơi khác:

Thái Âm hiềm có Thiên Cơ,

Âm cùng mấy Phúc đồng sinh lưỡng bào (QXT)

Hạn:

Được nâng đỡ trong công danh tiền bạc (VVT)

Cứu giải được một số tai họa hoặc giảm thiểu điều xấu do các sát tinh gây ra nếu có

Khả năng giải họa:

Không giải được sự thị phi đố kỵ do Cự Kỵ gây ra, giảm được xấu xa do Hóa Kỵ gây ra

Không giải được Thiên Tướng hay Tướng Quân gặp Tuần hay Triệt

Giải được hình khắc, hiếm muộn, cô đơn, hiếm hoi do Cô Quả gây ra, giải được cách hiếm muộn do Lộc Tồn gây ra, nhất là đi vơi Tả Hữu

Không giải được sự cô đơn do Đào Hồng Cô Quả gây ra

Không giải nổi cách đa phu do Đào Hồng gây ra, không giải nổi cách đa phu do Thiên Không Hóa Kỵ Hồng Loan gây ra, cho dù có đủ bộ

Không giải nổi Địa Không Đà La hãm địa đồng cung cho dù là có đủ bộ Quan Phúc, nhưng nếu có thêm Thiên Giải thì giải được

Không giải nổi tật về mắt (cận thị) do Thái Âm Hóa Kỵ Đà La gây ra

Đồng cung thì giải rất mạnh bộ Hình Riêu Không Kiếp, một sao thì không giải hết được

Không giải nổi Thiên Không, nhất là Thiên Không tại Tứ Mộ

Giải manh một sao Địa Không hoặc Địa Kiếp

Không giải hết bộ Hỏa Linh hội họp

Đủ bộ và nhất là khi kết hợp với Thiên Giải có khả năng giải được Địa Không, Linh Tinh hãm địa

Giải rất mạnh bộ Hình Riêu, nhưng không giải nổi Hình Riêu Cô Quả hội họp

Thiên Quan Thiên Phúc cộng với Thiên Tài Thiên Thọ gọi bằng “tứ thiện diệu” (bốn sao thiện). Tứ thiện diệu mang bốn tác dụng: Phúc, Lộc, Thọ và Tài Hoa. Thiên Quan là sao về quí nên cần hội với Tử Vi, Thái Dương, Thiên Lương nhất là Thiên Quan đứng gần các sao tiền tài, trước có tiền sau nên danh, kiểu giàu có rồi ứng cử dân biểu nghị sĩ chẳng hạn.

Thiên Quan gặp Xương Khúc, Hóa Khoa học giỏi nổi tiếng. Nói tóm lại Thiên Quan đóng vai phụ giúp cho những quí tinh đã sẵn sàng thành công.

Thiên Phúc chủ phúc cho nên đóng cung Phúc Đức tốt nhất khiến tinh thần thư thái, tâm ý hoan lạc, không quan hoài đến giàu nghèo, tiền bạc nhiều ít. Giàu mà đau ốm, giàu mà không vui không hạnh phúc kể như “phú ốc bần nhân” (nhà giàu người nghèo). Khi cung Phúc Đức gặp Thiên Phúc nhiều khó khăn trên tinh thần cuộc sống được giải cứu.

Thiên Phúc rất hợp với sao Thiên Đồng. Thiên Đồng bị Hóa Kị nhờ Thiên Phúc đỡ giảm nhẹ phiền não. Thiên Đồng cùng Thiên Phúc cuộc đời không tai nạn họa hại.

Thiên Phúc đứng với Tham Lang Hóa Lộc lại thành con người thiên về lối sống vật chất; đứng với Liêm Trinh Hóa Lộc thì nặng với sinh hoạt tình cảm. Thiên Phúc cùng Thiên Thọ đóng vào Mệnh, vào Phúc Đức hay Tật Ách đều tốt đẹp. Thiên Phúc tại Mệnh tinh thần thoải mái, tại Phúc Đức ít tai ách, tại Tật Ách không bị bệnh nặng hay cố tật, chết êm đềm. Mệnh có Thiên Phúc thủ từ tâm, mộ đạo.


------------------------------

------------------------------
Đã đọc : 11816 lần

Liên hệ tư vấn

hỗ trợ trực tuyến

CHÚ Ý: AVS KHÔNG TƯ VẤN QUA CHAT

tư vấn qua điện thoại (3.000 đồng/phút): 1900 68 50 hoặc (04)1088 - 1 - 7

tư vấn trực tiếp: 2/15, phố Đào Duy Từ, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội

Lĩnh vực tư vấn:

- tư vấn tâm lý tình cảm, hôn nhân, gia đình

- tư vấn nuôi dạy trẻ

- tư vấn sức khỏe tình dục: xuất tinh sớm, lãnh cảm, nghệ thuật phòng the, bệnh tình dục....

- tư vấn sức khỏe sinh sản, giới tính

- tư vấn trị liệu tâm lý

- Các vấn đề tâm lý khác như ly hôn, stress

Gọi -1900 68 50 để đặt lich tư vấn trực tiếp

Biểu giá tư vấn tại đây

Khách hàng tư vấn trực tuyến xem hướng dẫn tư vấn tại đây