Tử vi đẩu số: Sao Thiên Tướng

Phương Vị: Nam Đẩu Tinh

Tính: Dương

Hành: Thủy

Loại: Ấn Tinh, Quyền Tinh.

Đặc Tính: Quan lộc, phúc thiện, uy nghi, đẹp đẽ, thanh sắc.

Tên gọi tắt thường gặp: Tướng

Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 5 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Thiên Tướng, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.

Vị Trí Ở Các Cung

Miếu địa ở các cung Dần, Thân.

Vượng địa ở các cung Thìn, Tuất, Tý, Ngọ.

Đắc địa ở các cung Sửu, Mùi, Tỵ, Hợi.

Hãm địa ở các cung Mão, Dậu.

Tướng Mạo

Cung Mệnh có Thiên Tướng đắc địa thì mặt đẹp đẽ, uy nghi, có tinh thần và khí sắc, thân hình nở nang, cao vừa tầm, da trắng. Còn Thiên Tướng hãm địa thì thân hình cũng nở nang nhưng thấp. Thiên Tướng, Hóa Lộc: Có nam tính, đẹp trai, thu hút phụ nữ.

Tính Tình

Sao Thiên Tướng ở cung miếu địa, vượng địa, đắc địa là người rất thông minh, thanh tú, ngay thẳng, đôn hậu, hiền lành, đẹp người, can đảm, có lòng trắc ẩn, hào hoa, thích ăn ngon mặc đẹp, trang phục lúc nào cũng tề chỉnh, đôi khi có sự đam mê. Người nữ thì lại có tánh hay ghen.

Sao Thiên Tướng ở cung hãm địa: thông minh, đôn hậu, liều lĩnh, hay lầm lẫn, ương ngạnh, bướng bỉnh, dễ đam mê, ít lo xa, hay bắc đắc chí.

Nói chung, đàn ông có Thiên Tướng đắc địa thủ mệnh có đủ đặc tính của phái nam, từ sự thông minh, cương trực, can đảm, uy nghi cho đến sự đam mê, do đó rất có hấp lực đối với phái nữ.

Đàn bà có Thiên Tướng đắc địa ở Mệnh thì lại có nam tính nhiều hơn nữ tính như can đảm, dũng mãnh, bạo tợn, nhưng rất ghen tuông. Do đó, Thiên Tướng hợp với nam hơn nữ.

Công Danh Tài Lộc Phúc Thọ:

Thiên Tướng là quyền tinh và dũng tinh, cho nên rất lợi về công danh, nhất là khi tọa thủ ở cung Mệnh, Quan Lộc.

Sao Thiên Tướng đắc địa: thì được phú quý, phúc thọ, có uy quyền lớn có danh tiếng. Đàn bà thì rất đảm đang, tháo vác, cũng được phú quý, phúc thọ. Những lợi điểm này chỉ có khi Thiên Tướng không gặp sát tinh (Không, Kiếp, Kình Dương, Hình) hay Tuần, Triệt và khi hội tụ với nhiều sao tốt.

Sao Thiên Tướng hãm địa: thì bất đắc chí, phải chật vật vì sinh kế, hay bị tai họa, bệnh tật ở mặt.

Nếu gặp hai trường hợp sau đây thì rất nguy hiểm, dù Thiên Tướng đắc địa hay hãm địa.

Gặp Tuần hay Triệt án ngữ: Suốt đời khổ cực, công danh trắc trở, tiền tài khó kiếm, lại hay mắc tai họa khủng khiếp, nhất là về gươm dao, súng đạn, không thể sống lâu được và dĩ nhiên phải chết một cách thê thảm. Cách này hầu như đúng cho cả hai phái nam và nữ.

Gặp Thiên Hình đồng cung: Rất khó tránh tai họa về binh dao và chắc chắn là đầu mặt bị thương tàn, hay bị tử trận, chết không toàn thây. Võ cách gặp hai trường hợp này rất hung nguy, hầu hết là những người chết trận.

Những Bộ Sao Tốt

Tử Vi, Thiên Phủ, Vũ Khúc, Thiên Tướng cách: Uy dũng, hiển đạt.

Thiên Tướng, Quốc Ấn hay Phong Cáo: Võ tướng có danh, quân nhân được nhiều huy chương, có công trạng lớn.

Thiên Tướng, Thiên Mã: Anh hùng, tài giỏi, can đảm.

Thiên Tướng, Thiên Y: là bác sĩ. Nếu đi với Tả Hữu, Thiên Quan, Thiên Phúc thì thuốc rất giỏi, mát tay.

Thiên Tướng, Hồng Loan: Có vợ giàu sang, đảm đang, có chồng phú quý.

Thiên Tướng và Tướng Quân: Hai sao này có đặc tính giống nhau, nhưng Tướng Quân thì táo bạo, vũ phu, làm càn, có tinh thần sứ quân, ham tranh quyền, còn Thiên Tướng thì đôn hậu, chính trực, có kỷ luật hơn. Cả hai đều bất khuất, dũng khí. Nếu cả hai đồng cung thì rất hiển hách về võ: tài ba, đảm lược, cả đối với phái nữ (kiểu như Bà Trưng, Triệu).

Thiên Tướng và Liêm Trinh: Thiên Tướng vốn đôn hậu nên chế được tính nóng nảy, khắc nghiệt của Liêm Trinh.

Thiên Tướng đắc địa và Sát tinh: Khi đắc địa, Thiên Tướng có khả năng chế được tính hung ác của sát tinh, coi sát tinh như sao tùy thuộc. Cho nên Thiên Tướng đi với Phá Quân, Tham Lang , Phục Binh, Kình Dương, ĐàLa, Linh, Không, Kiếp được xem như đủ bộ, ví như tướng cầm quân, có sát nghiệp. Tuy nhiên, mối hung họa vẫn tiềm tàng và có thể sinh nghề tử nghiệp.

Những Bộ Sao Xấu

Thiên Tướng, Thiên Hình: Rất khó tránh tai họa về binh đao và chắc chắn là đầu mặt bị thương tàn, hay bị tử trận, chết không toàn thây. Võ cách gặp hai trường hợp này rất hung nguy, hầu hết là những người chết trận.

Thiên Tướng, Tuần, Triệt: Suốt đời khổ cực, công danh trắc trở, tiền tài khó kiếm, lại hay mắc tai họa khủng khiếp, nhất là về gươm dao, súng đạn.

Thiên Tướng, Kình Dương: Bị hiểm tai đe dọa thường trực.

Thiên Tướng, Liêm Trinh, Thiên Hình: Hay bị tù tội.

Sao Thiên tướng đến cung Mệnh, chủ về người sắc mặt xanh trắng hoặc hơi kèm sắc vàng. Khuôn mặt hình vuông hoặc kèm hơi tròn. Dáng vóc người trung bình, cũng có người béo mập.

Tính tình khoan hậu, thái độ rộng rãi, động tác ổn trọng, có lòng chính nghĩa, giữa đường thấy chuyện bất bình có thể rút đao tương trợ. Sùng thượng tín ngưỡng tôn giáo, thích tu hành, tình cảm dễ xung động. Đối với bất cứ ai gặp cảnh ngộ khó khăn, hay không lành, đều sinh lòng cảm thông.Thiên tướng rất ưa các cát tinh Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Tam thai, Bát tọa, Thiên quý, Ân quang, Thiên đức, Giải thần, Thiên vu hội chiếu. Nếu lại gặp tam cát hóa Quyền Lộc Khoa, và Lộc tồn, Thiên mã thì chủ về có địa vị cực phẩm, làm tướng lĩnh, cột trụ quốc gia, lãnh đạo trong xã hội, vừa phú vừa quý. Nếu sao Thiên tướng đồng độ với sao Tử vi và Lộc tồn, thì chủ về người có thiên kiến, hoặc có chủ kiến cực mạnh, thích tranh quyền, đồng thời cũng dễ bị tiểu nhân khuynh đảo. Có các sao Vũ khúc, Liêm trinh và Tham lang, Thiên tài, Phượng các hội chiếu, chủ về người thông minh hiếu học, nhiều tài nghệ. Nếu lại có Kình dương, Đà la hội chiếu, ở hãm địa, thì chủ về người lấy kỹ thuật, hay nghệ thuật làm sinh kế. Có tam cát hóa Khoa Quyền Lộc và Lộc tồn thì lấy kỹ năng chuyên môn hay nghệ thuật để khởi nghiệp. Nếu có các sát tinh ác diệu Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình, Thiên nguyệt, Âm sát, Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, chủ về hình khắc hoặc bản thân tàn tật. Nếu có các tinh diệu Vũ khúc, Phá quân, Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Đà la, Thiên mã, Hóa Lộc vậy chiếu, chủ về người lúc thành lúc bại, chợt lên chợt xuống. Thành công thì tăng thêm nhà cửa ruộng đất, hiếm có trên đời. Thất bại thì tai họa lao ngục, tiểu nhân bao quanh, hình thương khắc hại. Đây là cách "trong cát có hung", "trong hung có cát", chợt tốt chợt xấu thay đổi bất thường.

Người nữ có sao Thiên tướng đến cung Mệnh, chủ về người thông minh, thận trọng, có chí khí trượng phu. Có tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc, và Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên mã hội chiếu, là mệnh phu nhân, vượng phu ích tử, phú quý song toàn. Nếu có Văn xương, Văn khúc, Hóa Kị, Kình dương hội chiếu, chủ về cô độc, nên xuất gia tu hành, hoặc làm kế thất, vợ lẻ, ở chung mà không cử hành nghi thức hôn lễ, nếu không sẽ hình khắc phân ly.

Sao Thiên tướng đến lưu niên, đại hạn, tam phương tứ chính có các Cát tinh Tả phụ, Hữu bật, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa, và Lộc tồn, Thiên phủ hội chiếu, chủ về tài lộc dồi dào, quyền cao chức trọng, kết hôn sinh con trai, danh lợi đều có. Nếu có sao Phá quân, Vũ khúc, hoặc Thất sát, Kình dương, Đà la hội chiếu, chủ về "lời qua tiếng lại cãi vã", kiện tụng, tiểu nhân ám hại, khuynh gia phá sản, nếu gặp thêm các Sát tinh Thiên hình, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Thiên hư hội chiếu, chủ về hình khắc trùng trùng, hơn nữa bản thân có lúc còn cảm nhận thấy trống rỗng, có ý đồ tự sát. Không có tinh diệu Cát tường hóa giải sẽ chủ về tai họa tử vong.

- Thiên tướng đóng tại Hợi thì tốt ; tại Sửu, Mùi : tuổi canh, tí, nhâm tị, ngọ: thọ 69 tuổi và danh giá; thủy mộc : trung bình. Kim : văn võ toàn tài.

- Thiên tướng nữ Mệnh : cao số, chồng trắc trở.

- Tướng, Vũ dần thân : đại phú.

- Thiên tướng, Hồng loan nữ Mệnh : quý nhân hảo phối.

- Thiên tướng thủ Mệnh, Vũ, Tướng giáp lai : quý hiển.- Tướng, Mã đồng cung : phú quý.

- Tướng, Mã, Phong cáo : có tước lộc hay bằng sắc phong khen.

- Tử, Phủ, Vũ, Tướng, Am, Dương cư Vượng, Địa ; Tướng, Vi, Tả, Hữu, Văn, Vũ. Khoa, Quyền, Tướng, Phủ, Quyền đái An : đại quý.

- Tướng, Vi, Mệnh tại ngọ : đàn bà có chồng con quý hiển; tại Thìn, tuất : đàn ông can đảm.

- Tướng, Tấu : đi xa, nghĩ làm những sự kỳ dị.

- Tướng, Phủ : làm quan tốt.

- Tướng, Suy, Văn, Diêu, lưu hành (ở Mệnh): thì xấu, dù có Khoa, Quyền : đối cũng vô ích.

- Tướng Hồng nữ Mệnh : quý nhân hảo phối (Vượng thì càng tốt lắm).

- Tướng, Linh, Cáo, An : công hầu, đại vinh hiển.

- Tướng, Liêm, Mệnh tại thân : danh giá hách dịch.

Thiên Tướng Khi Vào Các Hạn

Nếu sáng sủa thì hạn đẹp về danh, tài bất ngờ. Nếu xấu xa thì không tốt. Nhưng kỵ nhất là Thiên Tướng gặp Hình, Tuần, Triệt, Không, Kiếp sẽ bị tai họa, bệnh tật nói ở trên.

- Tướng, Phá, An ngộ Triệt : có kẻ tiểu nhân oán hại vu khống.

- Tướng hãm Không, Kiếp : công việc rắc rối.

- Nếu sáng sủa thì hạn đẹp về danh, tài bất ngờ.

- Nếu xấu xa thì không tốt. Nhưng kỵ nhất là Tướng gặp Hình, Tuần, Triệt, Không, Kiếp sẽ bị tai họa, bệnh tật

Thiên Tướng thuộc Nhâm Thủy, Nam đẩu tinh, hóa khí là Ấn, người xưa quan niệm như một vị quan trông coi về ấn tín, trong khi Thiên Cơ được coi làm mưu thần. Thiên Tướng và Thiên Cơ đều mang chung một khuyết điểm là thiếu khả năng lãnh đạo, nhưng lại khá hay giỏi về mặt phò tá. Trên căn bản Thiên Tướng khác Thiên Cơ ở chỗ: Thiên tướng tài về hành chính, còn Thiên Cơ tài về tham mưu.

Thiên Tướng đắc thời làm to hay ở địa vị phó hay thứ. Tính tình Thiên Tướng cẩn trọng, ăn nói cẩn thận, làm việc chậm và kỹ, đối với người có thủy có chung, chịu đựng, gánh vác, thông minh và ưa giúp đỡ. Thiên Tướng ở địa vị lãnh tụ thường thất bại.

Thiên Tướng đứng cùng sao xấu biến ra xấu, đứng cùng sao tốt biến ra tốt. Luận về sao Thiên Tướng luôn luôn phải kết hợp với các sao khác, không thể tách riêng biệt ra để mà nói lên nhân cách của sao này. Tỉ dụ Tướng đi với Hóa Lộc hoặc Hóa Lộc xung chiếu là người rất quyến rũ đối với đàn bà con gái.

Tướng đi với Hoa Cái, Đào Hoa đàn bà đẹp và lẳng. Tướng đi với Hồng Loan thì đẹp mà đoan chính lấy chồng sang. Tướng đứng cùng Liêm Trinh gặp Phụ Bật là thầy thuốc giỏi. Tướng đi với Khoa Hình Quyền cung Ngọ lẫy lừng về nghiệp võ.

Thiên Tướng giữ ấn tín dĩ nhiên chủ về quyền lực, quyền lực lớn nhỏ tùy thuộc các sao phụ tá nhiều hay ít. Quyền lực về mặt nào còn phải xem nó kết hợp với sao nào. Xin nhắc lại, quyền lực của Thiên Tướng chỉ là thứ quyền lực tương đương chứ không phải quyền lực lãnh đạo.

- Cùng với Tử Vi tại Thìn Tuất

- Cùng với Liêm Trinh ở Ngọ Tí

- Với Vũ Khúc ở Dần Thân

- Một mình ở Sửu, Mùi, Tỵ, Hợi, Mão, Dậu

Tử Vi Thiên Tướng đồng cung (Thìn Tuất) đương nhiên Thiên Phủ chiếu hội, nhưng cách cục này không hay bằng Tí Ngọ Tử Vi hội chiếu Phủ Tướng (Phủ Tướng triều viên). Tử Tướng Thìn hay Tuất hãm vào Thiên La Địa Võng khó khăn hơn, nhất là vào số nữ không tránh khỏi vất vả.

Tử Vi Thiên Tướng gặp Phá Quân ở cung xung chiếu cũng thế. Chỉ khác nhau ở điểm Tử Phá thì tự mình tạo phản còn Tử Tướng thì nghe theo người làm phản. Một đàng do tham vọng, mộg đàng gió chiều nào ngả chiều ấy.

Nam mạng Tử Vi Thiên Tướng, phụ mẫu cung Thiên Lương hãm tại Tị hoặc Hợi. Thê cung Tham Lang bất hiếu nặng hơn như mê vợ mà quên công ơn sinh thành (Thê hội chiếu Đào Hoa), hoặc bỏ quê hương gia đình lưu lạc, hoặc phụ mẫu sớm xa trần thế, muốn ân trả nghĩa đền không được.

Tử Vi Thiên Tướng không thành công bằng Tử Phá. Sách ghi câu:”Tử Vi Thìn Tuất ngộ Phá Quân, phú quí hư danh”. Hư danh là không thực, hão huyền.

Luận sang cách Vũ Khúc Thiên Tướng.Thân với Dần là hai nơi Thiên Mã trú đóng. Vũ Khúc Thiên Tướng ham hoạt động ít chịu nhàn tản, nhiều sáng tạo lực rất sung sức để san bằng khó khăn. Xa quê hương bản quán dễ phát triển với đầu óc kinh doanh tài giỏi.

"Vũ Tướng Lộc Mã giao trì phát tài ư viễn quận":

Vũ Tướng Lộc Mã an bài

Buôn xa hoạch phát mấy người dám đương

Vũ Khúc Thiên Tướng lại thường lận đận công danh khó mà theo đuổi chức cao bổng hậu. Phải tránh không gặp Tuần Triệt thì Thiên Tướng với Thiên Mã mới không bị bẻ gãy khả năng phấn đấu.

Còn Thiên Tướng độc tọa Sửu Mùi. Đóng Sửu hay Mùi thì cung Phối cũng là Liêm Tham hoặc Tỵ hoặc Hợi. Đóng Sửu gặp Tử Vi Phá Quân xung chiếu từ Mùi, đóng Mùi gặp Tử Phá xung chiếu từ Sửu.

Thiên Tướng trên bản chất là con người phấn đấu, cái sức xung phá của Tử Phá kế là mạnh, khiến chí tiến thủ của Thiên Tướng tăng cao. Nếu như được sự phù trợ của Tả Hữu Quyền Lộc mới thành công, đựơc sự phò trợ của Xương Khúc thành ra tài hoa vào lãnh vực văn nghệ hợp cách. Thiên Tướng Sửu Mùi không Tả Hữu, không Quyền Lộc, không Xương Khúc ắt là vất vả.

Thiên Tướng Sửu Mùi đường vợ con phiền não. Số nữ tự lo lấy thân không có phận được nhờ chồng. Thiên Tướng ở Tỵ với Hợi đứng một mình, cung xung chiếu là Vũ Khúc Phá Quân, nếu gặp các phụ tinh đẹp đẽ thì tay trắng dựng nên cơ đồ.

Thiên Tướng khi ở Tỵ Hợi tất Thê cung là Tử Tham Mão hay Dậu, nếu lấy vợ hay chồng hơn tuổi thì vợ mới đảm đang quán xuyến, chồng mới lo toàn. Trường hợp vợ hay chồng trẻ hơn thì nuôi chồng hay khổ vì vợ. Nhất là Tử tham ấy lại cặp với Đào hoa, Mộc Dục, Thiên Riêu, Thiên Hình.

Thiên Tướng Tỵ Hợi làm việc giỏi, quản thủ tiền bạc vững chắc, ham hưởng thụ, không phải con người có lý tưởng.

Có câu phú: “Tỵ Hợi Tướng Binh Ấn nhập ư Bính Nhâm nhân, quyền hành chấn động, vận hữu Lộc Quyền hao điệu tài sản vượng tăng” (Nghĩa là Thiên Tướng thủ Mệnh tại Tỵ Hợi mà người tuổi Bính Nhâm có Phục Binh, Quốc Ấn thì có quyền hành gặp vận Quyền Lộc, Song Hao hay Phá Quân đắc địa tất hoạch phát tiền tài). Qua câu phú trên cho thấy Thiên Tướng còn hợp với Quốc Ấn Phục Binh và Tướng Quân nữa.

Thiên Tướng độc thủ Mão hay Dậu. Tại Mão gặp Liêm Phá từ cung xung chiếu, Mão không phải đất miếu mà là đất hãm. Thiên Tướng Mão chí phấn đấu bền bỉ, nhưng thiếu tự tin, quá lo xa thành ra bảo thủ cầu an nên không tiến bộ, thường ít dám đương đầu với khó khăn, thảng hoặc khi gặp hiểm nguy không phải là tay quyền biến.

Thiên Tướng Dậu cũng thế, nếu như các vận đi tốt đẹp còn khả thủ, ngược bằng vận trình xấu thì rất phiền, cuộc đời vướng víu như kẻ mắc vào lưới. Thiên Tướng Mão Dậu thì Thê cung Tham Vũ ở Sửu hay Mùi. Cung này có nhiều phụ tinh tốt thì vợ tháo vát đảm lược, nếu như Thê cũng lại có cả Hỏa Tinh, Linh Tinh hoặc Hóa Quyền thì bà vợ nắm quyền hành tuyệt đối. Thê cung hội hợp luôn cả những dâm tinh hay Đào hoa tinh thì chính cống là Võ Đại Lang vậy (Trong Thủy Hử truyện Võ Đại Lang bị vợ Phan Kim Liên quanh năm suốt tháng đi với trai)

Người đời sau qua kinh nghiệm đưa ra một cách cục kể là hấp dẫn và đúng về Thiên Tướng đóng Mão cung như sau: “Tướng lâm chấn địa, Đào Hồng Tả Hữu Quyền Xương diện hoa vũ bá vận phùng Phá Đà Kình Kiếp Lã Bố do dâm mãn kiếp” (Nghĩa là Mệnh an tại Mão có Thiên Tướng thủ hội Đào Hồng Tả Hữu Quyền Xương mặt đẹp như ngọc, võ nghệ hơn người gặp vận Phá Đà Kình Kiếp như Lã Bố vì mê Điêu Thuyền mà phá hỏng đời mình)

Thiên Tướng rất hiểm nguy, nếu gặp Triệt án ngữ Mệnh cung

"Thiên Tướng Tuần Triệt trước miền

Khi lâm trận địa đầu liền phân thây"

Thiên Tướng ngộ Triệt dễ là số bất đắc kỳ tử, tuy nhiên phải phối hợp thêm các hung sát tinh khác mới rõ rệt. Thiên Tướng hoàn toàn không chịu Hỏa Tinh, Linh Tinh. Bị Hỏa Linh người thủ Mệnh Thiên Tướng dễ đứng đầu với tai nạn gây thương tích

Luận về Thiên Tướng, sách Đẩu Số Toàn Thư đưa ra hai câu đáng chú ý:

a. “Thiên Tướng, Tham Liêm Vũ Phá Dương Đà sát tẩu, sảo nghệ an thân” (Thiên Tướng gặp Tham Lang, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân và các sát tinh Kình Đà tấu hội thì giỏi tay nghề, tạo dựng cuộc đời an định)

b. “Phùng Phủ khán Tướng” (Có Thiên Phủ phải tìm Thiên Tướng, không thấy nói “Phùng Tướng khán Phủ”)

Câu a đã xong vì quá rõ ràng. Dưới đây chỉ bàn về câu b thôi. Gặp Phủ phải tìm Thiên Tướng ý chỉ rằng nếu Thiên Tướng hay đẹp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tốt xấu của Thiên Phủ. Thiên Phủ thật ra không cần các sao đi theo thế tam hợp bằng sao Thiên Tướng như đã nói ngay từ đầu. Vậy thì ta cũng có thể nó: “Phùng Tướng khán Phủ”. Phủ bao giờ cũng đi với Tướng, đương nhiên theo cung cách an sao thì hễ đã có Tướng phải có Phủ đứng theo thế triều củng, hoặc tam hợp mà gặp nhau để ảnh hưởng lẫn nhau.

Nếu Thiên Tướng được hội hợp Thiên Phủ đứng với Hóa thì Thiên Tướng đắc lực hơn. Nhược bằng Thiên Phủ vốn không có Lộc đứng bên mà lại đi cùng các sát tinh thì Thiên Tướng cũng vì thế kém hẳn. Tại sao? Vì Thiên Phủ đứng với Sát tinh có nghĩa là kho rỗng, kho lộ tất nhiên phải gây phiền cho Thiên Tướng.

Về sao Thiên Tướng sách Tử Vi Đẩu Số còn đưa ra hai cách cục khác là: “Hình Kỵ hiệp Ấn” và “Tài Ấm hiệp Ấn”. Như đã biết, Thiên Tướng hóa khí là Ấn, và sao Thiên Lương là Ấm.Thiên Tướng đứng đầu, cung trước mặt phải là Thiên Lương, cung sau phải là Cự Môn.

Nếu như Cự Môn đi kèm với Hóa Lộc thì mới là “Tài Ấm hiệp Ấn” chủ về phú qúy. Trường hợp Thiên Tướng đóng ở Mão hay Dậu, Hóa Lộc đứng cùng Thiên Lương ở đằng trước thì không kể như Tài Âm hiệp.

Nếu Cự Môn đi kèm Hóa Kị thì lại biến ra Hình Kị hiệp Ấn cuộc đời sẽ phiền toái lận đận. Tại sao Thiên Lương biến thàn Hình? Đẩu Số Toàn Thư ghi rằng: “Thiên Lương là hình biến chi tinh”. Cứ thấy Kị đằng sau lập tức Thiên Lương chuyển ra Hình.

Trường hợp Thiên Tướng đằng trước Kình Dương, đằng sau Đà La cũng kể là Hình Kị hiệp Ấn, vì hóa khí của Kình Dương là Hình, hóa khí của Đà La là Kị.

Trường hợp Thiên Tướng với Vũ Khúc có Hóa Kị, hoặc đứng với Liêm Trinh có Hóa Kị, đằng trước Kình phía sau Đà thì lại thêm ra một cách cục khác gọi bằng “Kình Đà hiệp Kị” cách cục này còn ác liệt nữa, dễ vướng vào quan tụng, tai nạn, thăng trầm dữ dội. Kình Đà hiệp Kị chỉ thủ phận không nên đua chen mới yên.

Bàn sang câu: “Thiên Tướng chi tinh Nữ mệnh triền, tất đương tử qui cập phu hiền” (Thiên tướng vào số nữ chồng hiền, con thành đạt. Cách này cần hội tụ Khoa Quyền Lộc thì mới được phu hiền, tử quí. Bởi vậy Liêm Tướng thủ mệnh ở Tí mà người nữ tuổi Kỷ, hoặc Liêm Tướng tại Ngọ mà tuổi Giáp mới thật là hợp cách.

Câu phú:”Nữ mệnh Thiên Tướng Hữu Bật phúc lai lâm” ý chỉ sao phò tá Hữu Bật rất tốt với số Nữ Thiên Tướng thủ Mệnh nhưng hai sao ấy phải ở cùng một cungnếu chiếu theo tam hợp thì giảm đi. Tuy nhiên có một điểm xấu cho cách này là chồng thường có thiếp hầu, do đó ở vào hiện đại cách Thiên Tướng Hữu Bật không còn thể gọi là phúc lai lâm nữa. Ngày xưa ông chồng có thiếp hầu là chuyện thường, bây giờ là chuyện rắc rối.

Nữ mệnh Thiên Tướng không nên có Văn Xương Văn Khúc, vì gặp Xương Khúc người đàn bà thông tuệ mà thân phận mỏng, không thọ, dễ làm thiếp. “Thiên Tướng Xương Khúc nữ đa thị thiếp” “Nữ mệnh Thiên Tướng thủ mệnh, ngộ Xương Khúc xung phá, thiên phòng thị thiếp chi lưu”.

Sao Thiên Tướng thuộc Nam đẩu tinh hệ, an cách Thiên Phủ 5 cung theo chiều thuận. Thiên tướng là sao hành thủy, chuyên trông coi việc binh nhung, phò trợ cho Đế tinh. Trong nhóm Tử Phủ Vũ Tướng thì Thiên tướng đóng vai trò là Tá Tinh (sao trợ giúp). Hóa khí sao này là Ấn tinh, chuyên về quyền chức, quan lộc, ngoài ra nếu hội cung Thiên Phủ thì còn mang thêm ý nghĩa về Tài tinh. Về tính chất, Thiên Tướng là Quyền lệnh, Uy dũng, Phú quý, Thanh sắc, Tài phú.

Con người Thiên Tướng điềm tĩnh, “Kiến nhân nan, hữu trắc ẩn chi tâm; Kiến nhân ác, bão bất bình chi khí” (thấy người khó thì động lòng trắc ẩn, thấy người ác thì nổi sự bất bình). Khí chất thanh cao, con người quảng bác, ưa thanh sắc bề ngoài. Nếu gặp Đào Hồng – Nữ nhân thì nhan sắc sáng ngời, Nam nhân thì dung nhan tú mỹ. Nhưng nếu hội cùng bọn dâm tinh, Cái Đào Riêu Khúc Mộc, ắt dâm phong thuần tược, ăn chơi sa đọa một đời.

Thiên Tướng hợp với các bộ sao tá tinh cấp dưới như Tả Hữu, Tướng Ấn, Phụ Cáo. Cực tốt nếu hội được văn tinh và quý tinh như Xương Khúc, Khôi VIệt, Khoa Quyền Lộc. Nhưng nếu hội văn tinh mà thiếu quyền tinh thì dễ sa đà. Thiên Tướng muốn thành nghiệp hơn đời phải cần có Tả Hữu, Binh Hình Tướng Ấn, Tứ Linh hội hợp, thì công danh phú quý không thể nói hết.

Thiên Tướng là Quyền Lệnh tinh nên nó có khả năng khắc chế, giải trừ được các sao hung sát tinh như Không Kiếp Kình Đà, nhưng khí đó Thiên tướng sẽ bị hao tổn nguyên thần mà ảnh hưởng đến số mệnh, cuộc đời thêm nhọc nhằn, bôn ba. Nếu hung sát tinh quá nhiều, hội đủ bộ thì “mãnh hổ nan địch quần hổ”, sẽ gây nguy hiểm cho Thiên tướng, không nhưng mất hết tốt đẹp mà còn gây nhiều tai họa.

Vì Thiên tướng là Tá Tinh, cho nên nó phò trợ rất tốt cho Đế tinh, khi đóng tại Thìn Tuất, Thiên Tướng hộ giá cho Tử Vi, tăng thêm quyền lực. Nhưng vì lúc này Tử vi đã xa rời chính cung nên thiên về bôn ba, ly hương thoái tổ.

Khi Thiên tướng là Tài tinh, hội cùng Thiên Phủ thì Thiên Tướng sẽ hóa tài tinh do ảnh hưởng từ Tài khí của thiên Phủ mà làm nên phú quý. “Thiên Phủ, Thiên Tướng, nãi vi y lộc chi thần” (Thiên Phủ, Thiên Tướng hội vào mệnh là cách Phủ Tướng triều viên nên trở thành Thần của Y Lộc).

Thiên Tướng thuộc thủy, là ngôi thứ 5 của Nam Đẩu hệ, là nơi coi sóc việc chức tước, là phúc thiện tinh, hóa khí là Ấn Tinh – là quan lộc văn tinh, phò tá cho Đế tinh. Nếu nhân mệnh gặp được thì là người ngôn ngữ thành thật, không dối trá. Thấy người khó thì động lòng trắc ẩn, thấy người ác thì nổi sự bất bình. Quan lộc cung mà được thì dễ hiển vinh, đứng cùng Đế tinh dễ tranh đoạt quyền hành. Giúp cho Nhật nguyệt thêm sáng, gặp Liêm Trình thì thành ác. Nhập vào Thân Mệnh thì vinh hoa. Nhapạ vào Tử tức thì con cái tốt đẹp, 12 cung đều tốt cả. Không theo ác mà đổi chí, không sợ ác mà thay dạ. Hạn mà gặp thì phú quý không đo hết được. Sao này nếu vào đất sinh vượng, tuy chẳng gặp Đế tọa mà được gặp tả hữu thì vẫn có uy quyền chấp chưởng. Hoặc nếu cư vào nhàn địa, vẫn được tốt đẹp. Nhị hạn mà gặp chủ về phú quý.

Thiên tướng là Nam đẩu tinh coi việc quyền chức, hóa khí là ấn tinh, chủ về ăn mặc phong túc (đầy đủ), hội cùng Xương Khúc Tả Hữu, là số công khanh. Hãm địa mà gặp Tham Liêm Vũ Phá Dương Đà sát tinh thì nhờ xảo nghệ (nghề khéo) mà được yên thân. Ngộ Hỏa Linh cung xâm phá thì dễ tàn tật. Nữ nhân có Tướng chủ thông minh, đoan trang, có chí khí như nam nhi. Ba phương mà có cát tinh củng chiếu dễ được phong tặng. Nếu bị Xương Khúc trùng phá thì dễ làm phận tỳ thiếp. Nếu là tăng đạo đi tu thì chủ về thanh cao…”

Thiên tướng nguyên thuộc thủy, Hóa Ấn tinh, chủ về Quan lộc Thân mệnh hai cung mà gặp thì nhiều tài nhiều phúc, hình thể to lớn mập mạp, ngôn ngữ cản trọng không khinh độc, nếu đi vào quan trường dễ thành công lớn, nếu ở nhà thì cũng chủ tài cốc, nhiều lúa nhiều tiền, Đại tiểu hạn mà gặp, mọi sự đều tốt đẹp, sung túc.

Còn trường hợp Thiên Tướng gặp Tuần Triệt thì sao? Trong cổ thư không thấy nói đến trường hợp Tướng ngộ Tuần Triệt. Nhưng lấy hình tượng mà suy thì khi gặp Tuần Triệt, là đất không vong, Thiên tướng không còn đất dụng võ, trở nên khốn quẫn, bí bách. Cuộc đời đương số khó thành đạt, công danh tài lộc đều bị ảnh hưởng. Nếu lại bị gặp bọn Hung Sát tinh hội hợp thì chẳng khác nào tướng bị vây khốn, không những vất vả bôn ba lao toái, mà còn gây tai họa khô lường. Tượng của thiên tướng là Đầu, Mặt, cho nên dễ mang thương tích. Gặp trường hợp này, binh gia tối kỵ - dễ bỏ thân nơi trận mạc. Nhưng cần xem xét kỹ, nếu chỉ lạc Không vong mà không bị Sát tinh xâm phá thì cũng không đến nỗi nào, cuộc đời tiên trở hậu thành, nghèo trước sướng sau, trường hợp này rất cần tránh xa dâm tinh.

Luận về Thiên Tướng ngộ Tuần-Triệt, các sách Tử vi mới đều nói là “tướng cụt đầu” hay “ấn tín bị sứt mẻ” – mất hết uy quyền, lại dễ bị mắc tai nạn khủng khiếp, tàn tật, đầu-mặt mang thương tích… Nhưng thực tế chiêm nghiệm cho thấy điều này chưa hoàn toàn đúng. Ngộ Tuần Triệt nhưng cần phải xem xét 3 phương xem tốt xấu nặng nhẹ thế nào, các sao cứu giải ra sao, nhất là bộ Tử Vi - Vũ Phủ - Tả hữu, nếu sáng sủa tốt đẹp thì cũng chẳng đáng lo ngại, cuộc đời vẫn phong túc như thường. Trong nhóm các Cát tinh, thì Thiên Tướng là sao rất tốt, vừa uy dũng, vừa tài phú. Con người – Số mệnh đều tốt, chế hung giải nguy, cho nên cũng không mấy khi “đầu mình phân hai” như một số nhận định.

Thiên Tướng đắc thời làm to hay ở địa vị phó hay thứ. Tính tình Thiên Tướng cẩn trọng, ăn nói cẩn thận, làm việc chậm và kỹ, đối với người có thủy có chung, chịu đựng, gánh vác, thông minh và ưa giúp đỡ. Thiên Tướng ở địa vị lãnh tụ thường thất bại.

Thiên Tướng đứng cùng sao xấu biến ra xấu, đứng cùng sao tốt biến ra tốt. Luận về sao Thiên Tướng luôn luôn phải kết hợp với các sao khác, không thể tách riêng biệt ra để mà nói lên nhân cách của sao này. Tỉ dụ Tướng đi với Hóa Lộc hoặc Hóa Lộc xung chiếu là người rất quyến rũ đối với đàn bà con gái.

Tướng đi với Hoa Cái Đào Hoa đàn bà đẹp và lẳng. Tướng đi với Hồng Loan thì đẹp mà đoan chính lấy chồng sang. Tướng đứng cùng Liêm Trinh gặp Phụ Bật là thầy thuốc giỏi. Tướng đi với Khoa Hình Quyền cung Ngọ lẫy lừng về nghiệp võ.

Thiên Tướng giữ ấn tín dĩ nhiên chủ về quyền lực, quyền lực lớn nhỏ tùy thuộc các sao phụ tá nhiều hay ít. Quyền lực về mặt nào còn phải xem nó kết hợp với sao nào. Xin nhắc lại, quyền lực của Thiên Tướng chỉ là thứ quyền lực tương đương chứ không phải quyền lực lãnh đạo.

Thiên Tướng rất hiểm nguy, nếu gặp Triệt án ngữ Mệnh cung

"Thiên Tướng Tuần Triệt trước miền

Khi lâm trận địa đầu liền phân thây"

Thiên Tướng ngộ Triệt dễ là số bất đắc kỳ tử, tuy nhiên phải phối hợp thêm các hung sát tinh khác mới rõ rệt. Thiên Tướng hoàn toàn không chịu Hỏa Tinh, Linh Tinh. Bị Hỏa Linh người thủ Mệnh Thiên Tướng dễ đứng đầu với tai nạn gây thương tích

Thiên Tướng sinh ra từ quẻ Nhu động hào 4 thành quẻ Quải.

Quẻ Nhu vừa là chờ đợi, vừa chỉ việc nuôi nấng ăn uống, vì nhu là nhu yếu phẩm, thực phẩm để ăn.

Lời thoán từ là “có lòng thành thực, thông sáng, chính đính thì tốt, làm việc thuận lợi” nên Thiên Tướng là sao ngay thẳng, trung thực. Nội ngoại kim thủy tương sinh là thông minh, làm việc trôi chảy thuận lợi.

Lời tượng viết “mây bay trên trời, quân tử dĩ ẩm thực yến lạc” chỉ việc có ăn uống vui vẻ, như đang dự tiệc nên Nhu là thời no đủ, tự có tính bình an, yên định, thong dong. Hạn gặp Tướng hay ứng cái “ẩm thực yến tiệc” bất ngờ.

Thời no đủ, có yến tiệc thì không phải lo cái ăn, đây chính là nguyên nhân tính không lo cơm áo của Tướng. Khi ăn tiệc người ta thường ăn mặc đẹp, sang trọng nên Tướng có tính ngoại hình, trọng bề ngoài.

Lúc ăn uống người ta thường mở lòng ra, do chén rượu đưa tình mà trở nên dễ tính nên Tướng là sao tình cảm. Khi ăn tiệc là lúc thoải mái vui vẻ, không đề phòng nên Tướng là chính tinh rất nhạy với giáp cách, việc ngồi cạnh ai rất quan trọng, có khi quan trọng hơn chính việc ăn uống.

Hào 4 quẻ Nhu là “chờ đợi chỗ hãm hiểm, rồi thoát được”, lời hào này rất quan trọng, ảnh hưởng ghê gớm lên sao. Làm cho Tướng tuy sinh vào thời Nhu no đủ, hanh thông nhiều cái tốt mà lại có đặc tính oái oăm là gặp phải điều xấu, điều hiểm ác, điều bấp bênh, phải chờ đợi, phải canh cánh trong lòng. Tính lý này giải thích được điều mà nhiều học phái tử vi không thể hiểu là tại sao Tướng cát tinh mà hạn đến Tướng lại có điều bấp bênh, dễ nguy hại, thậm chí gặp họa. Để lý giải, họ có khi gán cho Tướng hóa Kỵ ở can Canh, điều này không đúng.

Thực chất, Canh Lộc Tồn ở Thân làm động cái hung tượng “nhu vu huyết, xuất tự huyệt” của hào thế Thân kim của Tướng lên nên có việc bất an. Tương tự, Ất thì Phá Quân, Đinh thì Thất Sát, đều sẽ bị cái rắc rối khó khăn nào đó. Tuy rất giống nhưng không phải Hóa Kỵ! Hiểu rõ lý thuyết sẽ giúp ta biết được tại sao Tử vi Đài cảng nhất định tin vào kinh nghiệm của họ. Vì đằng sau đó có những sự thực được lý thuyết chứng minh rõ ràng. Có nhiều cách để làm chính tinh gặp khó, không nhất thiết cứ phải Hóa Kỵ. Biết nguyên nhân căn gốc sẽ thấy các tranh cãi về Tứ Hóa không phải đều vô lý, nó đôi khi làm ta rất kính phục kinh nghiệm của Tử Vi Đài Cảng. Như với Phan Tử Ngư ở Tứ Hóa can Canh.

Quẻ Quải có mâu thuẫn đổ vỡ, Tướng có sứt mẻ quan hệ với người, giống như sao Thái Dương nhưng nhẹ hơn, do vị hào 4. Lời hào là “xuôi theo bầy cừu thì hết xấu, nghe lời nói nhưng không tin”, Tướng vì thế là sao đa nghi ngầm, bề ngoài dễ dãi đơn giản, có thể thuận theo người dễ dàng nhưng bên trong luôn nghĩ lại, nói chung có tầm sâu hơn thiên hạ. Lời quẻ Quải là “tố cáo tội ác trước sân đình” nên Tướng sở trường đả kích cái tiêu cực, thường rất khó kiềm chế khi thấy sự bất ưng.

Tượng quẻ Nhu kim thủy tương sinh, nạp giáp hào thế tử tôn Thân kim sinh Hợi Thủy, Tướng vì thế là sao thông sáng. Thân kim là kim vũ khí nên Tướng cương kiện bất khuất, có uy. Kim có tính nghĩa khí, đây chính là nguyên nhân tính nghĩa khí của Tướng. Thân kim sinh hào ứng, hào 6 thê tài Tý, Tướng điển hình chính là Lục Vân Tiên, gặp việc bất bình rút đao tương trợ.

Tử tôn trời trăng, đạo giáo, huyền bí, Thân kim là phía tây, đất phật, nên Tướng có sự nhạy cảm lớn với tôn giáo, tinh thần ngộ đạo cao. Các sao sinh ra từ hào tử tôn đều ít nhiều dính dáng tới cái huyền bí, Tướng đã tử tôn lại Thân kim đất phật nên đạo lực rất mạnh. Rất nhiều thầy bói, thầy số là Thiên Tướng.

Quẻ Nhu kim thủy hữu tình, thế tử tôn sinh thê tài là thích phụ nữ. Hào ứng, hào 6 hoàn cảnh lại toàn thê tài nên Tướng có tính đa duyên, dễ đam mê. Trong quẻ quá nhiều hào tài thủy, hoàn cảnh lênh láng toàn nước, Tướng dễ bị sa đà chìm đắm. Bị tiết khí quá nhiều thì dù là kim cứng cũng sẽ mềm đi, Tướng khi xấu là nhu nhược, mềm yếu, không thể quyết đoán, vì thế bị cho là kém cỏi. Thê tài là phụ nữ, tình cảm, Tướng hay bị làm mềm đi bởi tình cảm cá nhân.

Quẻ Nhu vốn sẵn có ăn uống yến tiệc, nên Tướng thường thích rượu chè, ham ăn chơi hưởng lạc, ít tham vọng.

Như thế, Tướng vừa dễ đam mê, thích tửu sắc lại vừa có tinh thần vọng đạo, điều ngược đời này xưa nay không có cách gì lý giải được.

Bản thân là tử tôn sinh tài, trong quẻ lại có tối đa 4 hào tài nên Tướng có tính tài lộc, đây là đặc điểm tự nhiên của sao này chứ không phải do tam hợp với Thiên Phủ như quan niệm xưa nay. Thê tài quá nhiều thì đa duyên, lắm nợ, Tướng hay bị dính vào đàn bà, vì đàn bà mà hao tổn, mất mát. Theo tượng quẻ Quải có rạn nứt, đổ vỡ nên Tướng phải có bất hòa với nữ nhân, thường thất vọng về phụ nữ, bị cái thực dụng trắng trợn của đàn bà làm phiền lụy.

Hai hào huynh đệ kẹp hào thế, Tướng thường đông anh em họ hàng. Hai hào huynh đệ sinh thế thì cũng có hai hào thê tài tiết khí, Tướng thích công bằng từ bản chất. Huynh đệ sinh thế nên Tướng thích hai sao Tả Hữu. Các chính tinh khác phát sinh từ hào tử tôn cũng đều rất thích Tả Hữu. Hào 5 Tuất thổ sinh Thân, Dậu kim, thường có sự tương trợ từ cấp trên, Tướng được sách vở gán cho là tay chân của Tử Vi cũng không phải vô lý.

Hào thế sinh thê tài, hào ứng, hào 6 đều là thê tài thủy, Tướng bị bao vây tiết khí bởi hoàn cảnh, đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự thiếu độc lập, hay bị phụ thuộc của sao này. Tướng là chính tinh duy nhất bị tiết khí quá nhiều, bản thân chỉ có 1 kim mà bị 3 thủy hao tán nên tình trạng là phải tòng theo, dễ bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh. Tướng rất cần hai sao Tả Hữu, trong quẻ là hai hào huynh đệ Thìn Tuất, đó là nguyên thần để chống lưng cho mình. Tướng rất sợ tài nhiều thân nhược, lúc thân nhược, thường tự nhiên tránh vào đạo giáo triết lý, để đỡ bị tổn hao. Tướng là quý nhân vì sinh trợ cho hoàn cảnh nhưng lại vì thế mà không dễ dứt ra được.

Tóm lại, Thiên Tướng bản chất là cát tinh, tự có tính tài lộc. Việc xem Tướng là phó tinh kém cỏi là sai hoàn toàn. Cách hình thành sao của ông Tạ Phồn Trị được nhiều người hết sức ca ngợi đến lúc phải vứt vào sọt rác. Cho Tướng là quý nhân vì nó tam hợp Phủ là sai, cho Phủ Tướng bình ổn vì xung Sát Phá cũng là sai. Đó chỉ là cái nhìn thấy do cách an sao, không thể từ đó mà làm thành bản chất. Cách lập luận về Tứ Hóa cũng sai, không đúng qui luật biến dịch, dù ghép vào 4 mùa trông qua có vẻ hợp logic tự nhiên, nhưng thực ra không đúng…

Về cái tên Thiên Tướng thì do ngoại hình mà ra, thiên về tướng mạo, có vẻ bề ngoài nổi bật. Còn gọi là ông tướng cũng đúng, do được hào 5 sinh nên có bản chất thân cận, là tay chân của Tử Vi.

Về ngũ hành thì quẻ ngoại là thủy, trong quẻ cũng nhiều hào thủy, nên tính thủy rất vượng. Hào thế Thân kim cương kiện, tính công bằng nghĩa khí cũng là kim. Tướng có hành Thủy đới Kim.

Sao Thiên tướng trong thuyết ngũ hành thuộc dương thủy, ở trên trời thuộc chòm sao Nam Đẩu, hóa làm ấn tinh (sao ấn). Bản thân ấn có thể thiện mà cũng có thể ác. Thiện hay Ác là do người cầm ấn đi theo về bên nào. Ví như cái ấn trên pháp đường, có thể khiến cho người ta thăng quan phát tài, cốt nhục đoàn tụ, mà cũng có thể khiến cho người ta phải chịu hình phạt, gia phá nhà tan. Thiện ác khác nhau là do người cầm ấn dùng nó mà phân biệt.

Nói về sao Thiên tướng, ý nghĩa của sao Thiên tướng đúng là ý tứ "tương trợ", là địa vị tể tướng hoặc quân sư. Nghĩa vụ duy nhất của một vị tể tướng hoặc quân sư, là trung thành với chủ nhân, vì chủ nhân của mình mà tham mưu, lấy sự lợi hại của chủ nhân để tính toán mưu sự. Cho nên, chủ nhân thiện thì giúp cho chủ nhân làm thiện, chủ nhân ác thì giúp cho chủ nhân làm ác.

Do đó, tác phong của sao Thiên tướng là gặp tốt đẹp thì càng thêm tốt đẹp, gặp hung ác thì càng hung ác. Nó ở trong mệnh bàn 12 cung, chúng ta sẽ vô phương chỉ định nó, rốt cuộc, là sao cát tường hay là sao ác sát hay là sao hung. Nó là thiện hay là ác, đó là tùy theo các tinh diệu khác mà nó gặp, hoặc vây chiếu, và hoàn cảnh toàn thể mà thay đổi.

Cho nên, sao Thiên tướng đến Mệnh cung hay Thân cung, tả hữu có sao Hóa Lộc và sao Thiên lương giáp cung phù trì, sẽ là cách "Tài ấm giáp ấn", chủ về phú quý vinh hoa, hưởng thụ vui vẻ. Sao Thiên tướng hãm ở mệnh cung hoặc Thân cung, có sao Hóa Kị và sao Kình dương giáp cung, gọi là cách "Hình kị giáp ấn", chủ về người gặp phải tai họa lao ngục, kèm có sự tình "hình khắc thương tổn" phát sinh.

Cung Mệnh an tại Ngọ có Tướng, Liêm toạ thủ đồng cung hạn đến cung Thìn, Tuất gặp Tham Lang, Đa La linh tinh hội hợp thời như Hàn Tín phải chết chém về tay Lã Hậu.

Thiên tướng là nam đẩu đệ nhị tinh, ngũ hành thuộc dương dủy, hóa khí là ấn.

Đặc điểm của ấn tinh là công bằng chính trực, thận trọng.Trọn đời theo một nghề nghiệp, không dễ đứng núi này trông núi nọ, là tối giai liêu mạc nhân tài.

Bản thân cái ấn năng thiện năng ác, nhưng thiện ác phụ thuộc quan giữ ấn, ví dụ như quan trên công đường cầm ấn, bản thân phú quý, cốt nhục đoàn tụ, có thể khiến người thụ ấn hình phạt thì gia phá nhân tán, ấy là tốt xấu khác nhau, cho nên người thiên tướng tại mệnh cung, chủ trọng nghĩa khí nhưng cũng có thể rơi vào yếu đuối.

Thiên tướng tại thiên tinh là tể tướng hoặc quân sư. Cho nên trung thành với chủ nhân, giúp chủ nhân bày đặt mưu kế, coi lợi và hại của chủ nhân là lợi và hại của bản thân, cho nên phùng cát tất cát, phùng hung tất hung.Vì thế tại mười hai cung, thiên tướng tùy theo tinh diệu hội hợp mà phân định cát hung thiện ác.

Người thiên tướng thủ mệnh cũng chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội rất nhiều, phàm bối cảnh văn hóa xã hội khác nhau, mà lá số kết cấu tương đồng, mệnh vận khác nhau rất lớn.

Thiên tướng tại mệnh cung hoặc thân cung, kiến hóa lộc thêm thiên lương giáp gọi là tài ấm giáp ấn, chủ phú quý vinh hoa, khoái nhạc hưởng thụ. (khoái nhạc : sung sướng, hạnh phúc, may mắn)

Thiên tướng tại mệnh cung hoặc thân cung, kiến hóa kị thêm kình dương giáp, gọi là hình kị giáp ấn, chủ về có tại vạ ngục tù, bao gồm hình thương.

Thiến tướng thủ mệnh, không có chính tinh trí lực củng chiếu, lại kiến hỏa linh trùng phá, dễ gặp tàn tật.

Nữ mệnh thiên tướng, kị xương khúc đồng hội, chủ tình cảm sóng gió.

"Phủ Tướng triều viên cách" tức là hai sao Thiên Phủ và Thiên Tướng hội chiếu cung mệnh. Thêm vào đó, cung mệnh cư Ngọ, Thiên phủ cư Tuất, Thiên tướng cư Dần, là lấy kết cấu "Phủ Tướng triều viên cách".

Cổ ca nói:

Mệnh viên phủ tướng đắc câu phùng

Vô sát thân đương thị thánh quân

Phú quý song toàn nhân cảnh ngưỡng

Nguy nguy hiển nghiệp mãn kiền khôn.

Dịch nghĩa:

Cung mệnh gặp đủ sao Phủ Tướng

Không có sát tinh Thân hầu vua

Phú quý song toàn người ngưỡng mộ

Đức nghiệp lớn lao khắp đất trời.

Thiên phủ là chủ tinh Nam Đẩu, cổ nhân gọi là "Ti mệnh thượng tướng" (Thượng tướng cai quản mệnh lệnh), "Trấn quốc chi tinh" (Sao chấn quốc), chuyên giữ kho tiền.

Thiên tướng là "ấn tinh" (sao ấn), người xưa gọi là "Ti tước chi tinh" (Sao cai quản chức tước).

Cho nên Thiên tướng và Thiên Phủ trở thành một cặp "Thần cai quản tước lộc". Trong Đẩu Số, có một số sao thường phải gộp thành cặp để xem, gọi là "sao đôi", "Phủ Tướng" là một cặp sao quan trọng trong số đó. Người xưa nói: "phùng Phủ khán Tướng" (gặp Thiên phủ phải xem Thiên tướng) chính là ý này.

Thiên Phủ ở trong 12 cung vốn ít bị lạc hãm, nhưng Thiên phủ của "Phủ Tướng triều viên cách" thì lại không ưa tọa ở 4 cung Tị Hợi Sửu Mùi, đây là do Thiên tướng lạc hãm ở hai cung Mão Dậu, cho nên Thiên phủ ở cung Hợi hoặc cung Mùi liên đới hội hợp với cung Mão, Thiên phủ ở cung Tị hay cung Sửu, liên đới hội hợp với cung Dậu, tính chất đều thành hơi thiếu lực.

Kết cấu tốt nhất của "Phủ Tướng triều viên cách" là thiên tướng ở cung Tý, Thiên phủ ở cung Thân; Thiên tướng cư cung Ngọ, Thiên phủ ở cung Dần, Thiên tướng cư cung Thân, Thiên phủ ở cung Thìn.

Thiên Phủ lấy trường hợp không độc tọa làm cách cục tốt, chủ về người tính tình công chính, nếu không sẽ dễ trở thành gian giảo. Có điều, gian giảo ở đây thực ra cũng chỉ là mạng làm ăn kinh doanh ngày nay mà thôi.


------------------------------

------------------------------
Đã đọc : 10100 lần

Liên hệ tư vấn

hỗ trợ trực tuyến

CHÚ Ý: AVS KHÔNG TƯ VẤN QUA CHAT

tư vấn qua điện thoại (3.000 đồng/phút): 1900 68 50 hoặc (04)1088 - 1 - 7

tư vấn trực tiếp: 2/15, phố Đào Duy Từ, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội

Lĩnh vực tư vấn:

- tư vấn tâm lý tình cảm, hôn nhân, gia đình

- tư vấn nuôi dạy trẻ

- tư vấn sức khỏe tình dục: xuất tinh sớm, lãnh cảm, nghệ thuật phòng the, bệnh tình dục....

- tư vấn sức khỏe sinh sản, giới tính

- tư vấn trị liệu tâm lý

- Các vấn đề tâm lý khác như ly hôn, stress

Gọi -1900 68 50 để đặt lich tư vấn trực tiếp

Biểu giá tư vấn tại đây

Khách hàng tư vấn trực tuyến xem hướng dẫn tư vấn tại đây